Nhịp đập năng lượng ngày 8/7/2023

06:48 | 09/07/2023

5,604 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam dẫn đầu việc hủy bỏ dự án nhiệt điện than toàn cầu năm 2023; Cung ứng điện trong các năm 2024-2025 vẫn còn nhiều khó khăn; Xuất khẩu dầu khí Nga tăng mạnh nhưng doanh thu giảm sâu… là những tin tức nổi bật về năng lượng trong nước và quốc tế ngày 8/7/2023.
Nhịp đập năng lượng ngày 8/7/2023
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn

Việt Nam dẫn đầu việc hủy bỏ dự án nhiệt điện than toàn cầu năm 2023

Báo cáo mới nhất của Tổ chức Giám sát Năng lượng Toàn cầu (Global Energy Monitor) cho thấy, Việt Nam đã hủy bỏ 9,6GW các dự án nhiệt điện than được đề xuất từ tháng 1-5/2023. Đây là lần hủy bỏ các nhà máy nhiệt điện than được đề xuất lớn nhất của một quốc gia trong năm nay.

Global Energy Monitor ước tính có khoảng 20-25GW công suất nhiệt điện than được đề xuất đã chính thức bị hủy bỏ, hoặc được cho là bị hủy bỏ ở các quốc gia ngoài Trung Quốc trong quý I/2023. Trong đó, mức giảm của Việt Nam chiếm gần một nửa công suất bị hủy bỏ và nhiều hơn đáng kể so với bất kỳ quốc gia nào khác. Tuy nhiên theo nhà nghiên cứu Lucy Hummer của Global Energy Monitor, Việt Nam đang đi đúng hướng, nhưng vẫn nên xem xét mọi lựa chọn có sẵn để chuyển từ than đá sang năng lượng sạch mà không lãng phí chi tiêu cho khí đốt, sinh khối hoặc amoniac.

Theo Quy hoạch điện VIII, tỷ trọng của nhiệt điện than trong sản xuất năng lượng nội địa dự kiến sẽ giảm xuống 20% vào năm 2030 từ mức 1/3 hiện tại. Tính đến tháng 5/2023, Việt Nam đang có 25,9GW công suất điện than hoạt động. Công suất này được dự đoán sẽ đạt mức cao nhất là 30.127MW vào cuối thập kỷ này. Sau đó, Việt Nam sẽ giảm dần công suất theo mục tiêu loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng than đá vào năm 2050.

Cung ứng điện trong các năm 2024-2025 vẫn còn nhiều khó khăn

Phát biểu tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023 của Bộ Công Thương ngày 7/7, Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Trần Đình Nhân cho biết, cân đối cung cầu cho thấy tình hình cung ứng điện giai đoạn tới vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, đặc biệt là các năm 2024-2025, ở khu vực miền Bắc.

Nhằm góp phần đảm bảo cung ứng điện trong thời gian tới, EVN sẽ đề xuất các giải pháp trình Bộ Công Thương và Thủ tướng Chính phủ. Trước mắt, ngoài các giải pháp về vận hành hệ thống điện, đảm bảo đủ nhiên liệu cho phát điện, đảm bảo độ khả dụng của tổ máy, cần đẩy nhanh các dự án để phát triển nhanh các dự án điện khí LNG, bổ sung nhanh các nguồn điện cho khu vực phía Bắc như điện mặt trời tập trung, điện mặt trời mái nhà tự sản tự tiêu, điện gió trên đất liền và điện gió ngoài khơi...

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã yêu cầu các đơn vị đẩy nhanh tiến độ các dự án năng lượng lớn, trọng điểm (nhất là các dự án về nguồn và hệ thống truyền tải liên miền); đôn đốc, giám sát chủ đầu tư các nhà máy điện kịp thời khắc phục sự cố. Bảo đảm các điều kiện để khai thác tối đa công suất các nhà máy; thực hiện tốt công tác điều tiết, vận hành hệ thống điện, bảo đảm đồng bộ, hiệu quả.

Đồng thời, cần khẩn trương hoàn thành xây dựng Kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII và Chiến lược phát triển ngành Điện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tích cực triển khai xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi), Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả (sửa đổi), Luật Phát triển năng lượng tái tạo và các cơ chế, chính sách về mua bán điện trực tiếp.

14 dự án năng lượng tái tạo đã phát được 95,7 triệu kWh điện

Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tính đến ngày 7/7, 14 nhà máy/phần nhà máy năng lượng tái tạo chuyển tiếp với tổng công suất 686,12MW đã hoàn thành thủ tục COD, phát điện thương mại lên lưới. Sản lượng điện phát lũy kế của các dự án này đạt khoảng 95,7 triệu kWh; trong đó, sản lượng điện phát trung bình ngày khoảng 3,2 triệu kWh, chiếm khoảng 0,4% tổng sản lượng nguồn điện được huy động.

Đến nay, có 70/85 dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp với tổng công suất 3.851,86MW đã gửi hồ sơ cho công ty mua bán điện để đàm phán giá điện, hợp đồng mua bán điện. Trong đó, 59 dự án (tổng công suất 3.211,41MW) đã đề nghị giá tạm bằng 50% giá trần của khung giá. EVN và chủ đầu tư đã hoàn thành đàm phán giá và ký tắt hợp đồng PPA với 58/59 dự án, trong đó có 55 dự án với tổng công suất 3.052,01MW được Bộ Công Thương phê duyệt giá tạm.

Theo EVN, 20 dự án đã được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền nghiệm thu công trình/một phần công trình; 27 dự án đã được cấp giấy phép hoạt động điện lực toàn nhà máy/một phần nhà máy; 37 dự án đã có quyết định gia hạn chủ trương đầu tư. Hiện vẫn còn 15 dự án với tổng công suất 882,70MW chưa gửi hồ sơ đàm phán.

Cắt giảm sản lượng có thể khiến tình trạng thiếu dầu thêm nghiêm trọng

Thể hiện sự đoàn kết và hợp tác giữa các thành viên liên minh Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đối tác (OPEC+) bất chấp sức ép chính trị từ Mỹ đòi tăng sản lượng, Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, nhấn mạnh thị trường năng lượng sẽ không bị "bỏ mặc" và chính sách sản lượng được công bố ngày 4/6 là nỗ lực rất lớn để mọi người có thể thấu hiểu các nỗ lực của OPEC+.

Tuy nhiên, việc các nước xuất khẩu tìm cách nâng giá dầu cũng xung đột với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở các quốc gia phương Tây. "Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) dự báo rằng, thế giới sẽ rơi vào tình trạng thiếu nguồn cung vào cuối năm nay. Việc Saudi Arabia cắt giảm sản lượng có thể khiến tình trạng thiếu dầu thêm nghiêm trọng và đẩy giá cao hơn mức chúng ta mong muốn", ông Vivek Dhar, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu năng lượng và khai thác mỏ Australia, cho biết.

Quá trình chuyển đổi năng lượng bền vững và toàn diện là một trong những vấn đề phức tạp nhất mà thế giới đang phải đối mặt. Trong bối cảnh các diễn biến địa chính trị ngày càng khó lường, tình trạng bất ổn kinh tế toàn cầu và nhu cầu năng lượng ngày càng tăng, OPEC đang thể hiện nỗ lực hướng tới một tương lai bền vững hơn và bảo đảm nguồn cung năng lượng đáng tin cậy bằng cách sử dụng các giải pháp công nghệ mới nhất trong lĩnh vực này.

Xuất khẩu dầu khí Nga tăng mạnh nhưng doanh thu giảm sâu

Nga đang gia tăng khối lượng xuất khẩu dầu khí với những đơn hàng lớn đi khắp nơi trên thế giới, mặc dù vậy Moskva lại không nhận được khoản lợi nhuận tương xứng.

Theo thông tin Bộ Tài chính Nga công bố hôm 5/7/2023, thu ngân sách của Nga từ hoạt động xuất khẩu dầu khí trong tháng 6/2023 đã giảm xuống chỉ còn 5,8 tỷ USD (tương đương 528,6 tỷ rúp theo tỷ giá hối đoái hiện tại). Chỉ số này thấp hơn tới 26,4% so với cùng thời điểm năm ngoái.

Đầu tuần này, giới chức Moskva đã cho biết rằng giá trung bình đối với dầu thô Ural - loại dầu hàng đầu và có giá cao nhất của Nga trong khoảng thời gian từ tháng 1/2023 đến tháng 6/2023 là 52,17 USD/thùng. Trong khi đó, giá trung bình của dầu thô Ural tại thời điểm năm ngoái là 84,09 USD/thùng.

Nhịp đập năng lượng ngày 6/7/2023Nhịp đập năng lượng ngày 6/7/2023
Nhịp đập năng lượng ngày 7/7/2023Nhịp đập năng lượng ngày 7/7/2023

H.T (t/h)

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 ▲2000K 121,000 ▲1500K
AVPL/SJC HCM 118,500 ▲2000K 121,000 ▲1500K
AVPL/SJC ĐN 118,500 ▲2000K 121,000 ▲1500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 ▲100K 11,540 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 ▲100K 11,530 ▲100K
Cập nhật: 24/04/2025 23:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▲800K 116.800 ▲900K
TPHCM - SJC 118.500 ▲2000K 121.500 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▲800K 116.800 ▲900K
Hà Nội - SJC 118.500 ▲2000K 121.500 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▲800K 116.800 ▲900K
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▲2000K 121.500 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▲800K 116.800 ▲900K
Miền Tây - SJC 118.500 ▲2000K 121.500 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▲800K 116.800 ▲900K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲2000K 121.500 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲2000K 121.500 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▲800K 116.800 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▲800K 116.800 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 ▲800K 116.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 ▲790K 115.880 ▲790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 ▲790K 115.170 ▲790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 ▲790K 114.940 ▲790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 ▲600K 87.150 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 ▲470K 68.010 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 ▲340K 48.410 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 ▲740K 106.360 ▲740K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 ▲490K 70.910 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 ▲520K 75.550 ▲520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 ▲540K 79.030 ▲540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 ▲300K 43.650 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 ▲260K 38.430 ▲260K
Cập nhật: 24/04/2025 23:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,320 ▲200K 11,840 ▲200K
Trang sức 99.9 11,310 ▲200K 11,830 ▲200K
NL 99.99 11,320 ▲200K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,320 ▲200K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,550 ▲200K 11,850 ▲200K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,550 ▲200K 11,850 ▲200K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,550 ▲200K 11,850 ▲200K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▲200K 12,100 ▲150K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▲200K 12,100 ▲150K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▲200K 12,100 ▲150K
Cập nhật: 24/04/2025 23:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16101 16368 16952
CAD 18275 18551 19171
CHF 30921 31298 31949
CNY 0 3358 3600
EUR 29027 29296 30332
GBP 33862 34251 35191
HKD 0 3226 3428
JPY 176 180 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15258 15854
SGD 19320 19600 20128
THB 694 758 811
USD (1,2) 25779 0 0
USD (5,10,20) 25818 0 0
USD (50,100) 25846 25880 26174
Cập nhật: 24/04/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,831 25,831 26,174
USD(1-2-5) 24,798 - -
USD(10-20) 24,798 - -
GBP 34,113 34,205 35,094
HKD 3,293 3,303 3,401
CHF 31,012 31,108 31,953
JPY 178.68 179 186.85
THB 740.34 749.48 801.34
AUD 16,362 16,422 16,849
CAD 18,531 18,590 19,076
SGD 19,473 19,534 20,138
SEK - 2,652 2,742
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,895 4,027
NOK - 2,447 2,530
CNY - 3,526 3,620
RUB - - -
NZD 15,185 15,326 15,769
KRW 16.83 17.55 18.84
EUR 29,126 29,149 30,374
TWD 722.12 - 873.61
MYR 5,547.9 - 6,254.11
SAR - 6,817.88 7,171.69
KWD - 82,601 87,769
XAU - - -
Cập nhật: 24/04/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,800 25,830 26,170
EUR 28,918 29,034 30,123
GBP 33,899 34,035 35,006
HKD 3,285 3,298 3,405
CHF 30,782 30,906 31,800
JPY 177.38 178.09 185.47
AUD 16,209 16,274 16,802
SGD 19,434 19,512 20,041
THB 755 758 791
CAD 18,412 18,486 19,001
NZD 15,215 15,724
KRW 17.39 19.17
Cập nhật: 24/04/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25830 25830 26170
AUD 16271 16371 16939
CAD 18457 18557 19111
CHF 31152 31182 32067
CNY 0 3535.7 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29199 29299 30172
GBP 34141 34191 35301
HKD 0 3330 0
JPY 179.79 180.29 186.84
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15362 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19466 19596 20334
THB 0 723.2 0
TWD 0 790 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11400000 11400000 12100000
Cập nhật: 24/04/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,174
USD20 25,850 25,900 26,174
USD1 25,850 25,900 26,174
AUD 16,298 16,448 17,518
EUR 29,298 29,448 30,628
CAD 18,382 18,482 19,794
SGD 19,520 19,670 20,494
JPY 179.39 180.89 185.55
GBP 34,194 34,344 35,124
XAU 11,848,000 0 12,102,000
CNY 0 3,417 0
THB 0 756 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 24/04/2025 23:45