Đã qua giai đoạn "nuôi con gì, trồng cây gì" trong công nghiệp?

17:50 | 26/12/2021

351 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nền kinh tế mở với chủ lực là công nghiệp chế biến, chế tạo đã cho thấy trong nền công nghiệp Việt Nam có sự dịch chuyển tự nhiên hướng đến các ngành có giá trị cao, bất chấp biến động kinh tế thế giới hay ảnh hưởng do dịch bệnh.

Tốc độ tăng trưởng ổn định, nền kinh tế đi theo hướng xuất khẩu, sự gia tăng của các hiệp định thương mại tự do (FTA)... đã giúp nền sản xuất của Việt Nam tiếp tục có sự dịch chuyển sang các ngành công nghiệp có giá trị cao. Theo đó, các chỉ số xuất khẩu của Việt Nam đang chứng kiến sự tăng trưởng bất chấp tình hình dịch bệnh với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tính từ đầu năm đến 15/12 đạt 317,446 tỷ USD.

Đã qua giai đoạn
Công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam đã có sự phục hồi mạnh trong năm 2021.

Từ đầu năm đến 15/12, có 6 nhóm hàng đạt kim ngạch từ 10 tỷ USD. Nhóm hàng lớn nhất là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (đạt 71,9 tỷ USD). Các nhóm hàng tiếp theo là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (đạt 44,3 tỷ USD); điện thoại và linh kiện (đạt 20,3 tỷ USD); vải (đạt 13,63 tỷ USD); chất dẻo nguyên liệu (đạt 11 tỷ USD); sắt thép (đạt 11 tỷ USD).

Xét về tốc độ tăng trưởng, nhóm ngành điện tử, máy tính và linh kiện vẫn duy trì được đà tăng trưởng từ năm ngoái. Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu của nhóm ngành này ghi nhận sự bứt phá khi vượt qua hàng dệt may từ năm 2019 đến nay.

Sau điện thoại và linh kiện, nhóm ngành xuất khẩu chủ lực đang chuyển dần từ mặt hàng giá trị gia tăng thấp như quần áo và giày dép sang những sản phẩm mang lại giá trị cao hơn như điện tử và linh kiện. Nói cách khác, tỷ trọng sản xuất - xuất khẩu của Việt Nam cho thấy sự thay đổi về định hướng của ngành công nghiệp.

Xét về vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, ngành sản xuất và chế tạo ghi nhận giá trị năm 2021 chiếm 53,4% tổng vốn, tăng 16,45% so với cùng kỳ. Lượng vốn đầu tư FDI đạt 11,83 tỷ USD với 402 dự án mới được phê duyệt.

Lý giải cho sự chuyển dịch này, ông John Campbell, Quản lý bộ phận Bất động sản Công nghiệp (Savills Việt Nam) cho biết, trong 20 năm qua, nhờ tốc độ tăng trưởng ổn định, nền kinh tế đi theo hướng xuất khẩu, sự gia tăng của các FTA, lực lượng lao động trẻ, các chính sách ưu đãi đầu tư cùng với vị trí địa lý chiến lược, Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất thu hút được sự chú ý nhiều nhất trong khu vực châu Á.

“Bất chấp một năm 2021 đầy thách thức, Việt Nam vẫn đang tiếp tục chuyển đổi từ các ngành công nghiệp thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp có giá trị cao. Các ngành công nghiệp giá trị thấp đang dần dần hình thành ở những khu vực khác tại Đông Nam Á, nguyên nhân là do Việt Nam không còn áp dụng các chính sách ưu đãi như trước, nên việc tìm kiếm nguồn lao động cũng như đất đai giá rẻ tại Việt Nam trở nên khá khó khăn. Tuy nhiên, nhà đầu tư của những ngành công nghiệp có giá trị cao tại nước ngoài vẫn lạc quan về sự tăng trưởng dài hạn của Việt Nam”, ông John Campbell nói.

Ngành dệt may đứng trước khó khăn thiếu hụt nhân công
Ngành dệt may không còn được hưởng ưu đãi của chính sách

Các doanh nghiệp hiện nay đang chú trọng nâng cao công nghệ và đẩy mạnh sản xuất theo chuỗi giá trị, chuyển sang mô hình sản xuất sạch và sản phẩm công nghệ cao nhằm thích ứng với nhu cầu từ khách hàng.

“Bởi vậy, nhà phát triển bất động sản cần lưu ý để cung cấp những khu công nghiệp có thể đáp ứng được yêu cầu này”, ông Matthew Powell, Giám đốc Savills Hà Nội chia sẻ.

Việc phát triển các ngành hàng trong chuỗi giá trị sẽ thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền công nghiệp Việt Nam. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) chỉ ra rằng, lĩnh vực sản xuất có thể đạt mức tăng trưởng 16% trong các chiến lược 4.0 vào năm 2030 nếu các doanh nghiệp nhỏ và vừa bắt đầu triển khai các công nghệ cấp trung bình. Thêm vào đó, công nghệ mới có thể giúp lĩnh vực này tăng thêm 7-14 tỷ USD trong tương lai.

Để nâng cao năng lực sản xuất, các doanh nghiệp đang tích hợp các công nghệ mới nổi tại nhà máy như trí tuệ nhân tạo hay in mô hình 3D. Đơn cử, hiện tại Vingroup đã bắt đầu sử dụng 1.200 robot ABB trong một số quy trình hàn của mình. Công ty Cổ phần Công nghiệp KTG, một nhà phát triển xưởng xây sẵn tại Việt Nam đã bắt đầu xây dựng các xưởng xây sẵn 4.0 tại tỉnh Đồng Nai.

“Nhà máy công nghiệp 4.0” của họ sẽ tích hợp các bất động sản công nghiệp xây sẵn với công nghệ 4.0 cung cấp các giải pháp thông minh hơn, sáng tạo hơn và tối ưu hơn cho tầm nhìn phát triển của khách thuê.

Đã qua giai đoạn
Robot sẽ dần thay thế sức người trong công nghiệp Việt Nam.

Cũng theo chuyên gia từ Savills, xét về bức tranh FDI của ngành trong vòng một thập kỷ vừa qua, Việt Nam đang phát triển theo một chuỗi giá trị. Trong đó, ngành thiết bị điện tử chiếm tỷ trọng cao nhất ở mức 19,29% tổng vốn. Tiếp theo sau là điện tử và máy tính với 17,14%. Giấy, nhựa và cao su lần lượt chiếm 14,66% và 13,54%. Trong khi đó, các mặt hàng dệt may, may mặc và thực phẩm chỉ ghi nhận vốn đầu tư dưới 4% cho mỗi ngành.

Có thể thấy rằng, Việt Nam đang là nền kinh tế mới nổi và đã chính thức vượt qua giai đoạn "nuôi con gì, trồng cây gì". Những chính sách khuyến khích và bền vững của Chính phủ đã phần nào đem lại môi trường kinh doanh tốt, tăng mạnh thu hút đầu tư đối với các tập đoàn hàng đầu thế giới vào Việt Nam. Đây là nền tảng để nền công nghiệp nói riêng, kinh tế nước ta nói chung bước vào con đường phát triển cao tốc và bền vững.

Tùng Dương

Hàng hóa Việt Nam sẵn sàng với các vụ kiện phòng vệ thương mại Hàng hóa Việt Nam sẵn sàng với các vụ kiện phòng vệ thương mại
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Bảo Minh mở rộng Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Bảo Minh mở rộng
Tỉnh Quảng Ninh đồng hành cùng ngành than Việt Nam Tỉnh Quảng Ninh đồng hành cùng ngành than Việt Nam
Công nghiệp phục hồi mạnh mẽ Công nghiệp phục hồi mạnh mẽ

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC HCM 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC ĐN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,670 ▲340K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,660 ▲340K 11,809 ▲209K
Cập nhật: 22/04/2025 13:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 13:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,620 ▲400K 12,140 ▲350K
Trang sức 99.9 11,610 ▲400K 12,130 ▲350K
NL 99.99 11,620 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,620 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
Miếng SJC Thái Bình 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Nghệ An 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Hà Nội 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Cập nhật: 22/04/2025 13:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16143 16410 16991
CAD 18234 18510 19132
CHF 31377 31756 32412
CNY 0 3358 3600
EUR 29239 29509 30542
GBP 33939 34328 35271
HKD 0 3210 3412
JPY 178 182 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15277 15870
SGD 19316 19596 20122
THB 697 760 814
USD (1,2) 25655 0 0
USD (5,10,20) 25693 0 0
USD (50,100) 25721 25755 26100
Cập nhật: 22/04/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,730 25,730 26,090
USD(1-2-5) 24,701 - -
USD(10-20) 24,701 - -
GBP 34,238 34,330 35,250
HKD 3,280 3,290 3,389
CHF 31,508 31,606 32,487
JPY 180.55 180.87 188.98
THB 746.12 755.34 808.18
AUD 16,401 16,460 16,911
CAD 18,487 18,547 19,050
SGD 19,513 19,574 20,184
SEK - 2,672 2,767
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,928 4,063
NOK - 2,452 2,549
CNY - 3,506 3,602
RUB - - -
NZD 15,217 15,358 15,805
KRW 16.89 17.61 18.91
EUR 29,371 29,395 30,649
TWD 720.18 - 871.18
MYR 5,528.73 - 6,236.88
SAR - 6,789.96 7,147.15
KWD - 82,382 87,599
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,710 25,730 26,070
EUR 29,308 29,426 30,519
GBP 34,090 34,227 35,201
HKD 3,272 3,285 3,392
CHF 31,441 31,567 32,486
JPY 180.18 180.90 188.52
AUD 16,314 16,380 16,909
SGD 19,515 19,593 20,127
THB 761 764 798
CAD 18,411 18,485 19,002
NZD 15,317 15,827
KRW 17.40 19.19
Cập nhật: 22/04/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25720 25720 26080
AUD 16306 16406 16974
CAD 18403 18503 19055
CHF 31643 31673 32570
CNY 0 3508.4 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29415 29515 30393
GBP 34206 34256 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.78 182.28 188.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15374 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19468 19598 20332
THB 0 725.8 0
TWD 0 790 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11500000 11500000 12100000
Cập nhật: 22/04/2025 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,700 25,750 26,100
USD20 25,700 25,750 26,100
USD1 25,700 25,750 26,100
AUD 16,301 16,451 17,519
EUR 29,422 29,572 30,750
CAD 18,304 18,404 19,720
SGD 19,501 19,651 20,127
JPY 180.58 182.08 186.77
GBP 34,199 34,349 35,138
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,397 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 13:45