Trung Quốc cam kết giải quyết cuộc khủng hoảng thiếu điện trầm trọng

22:35 | 02/10/2021

6,346 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chính phủ Trung Quốc đã cam kết sẽ tăng nhập khẩu than đá và điều chỉnh giá điện theo cung - cầu của thị trường, trong bối cảnh nước này rơi vào cuộc khủng hoảng thiếu điện trầm trọng.
Trung Quốc cam kết giải quyết cuộc khủng hoảng thiếu điện trầm trọng - 1
16 trong số 31 tỉnh thành của Trung Quốc phải cắt điện luân phiên để giảm phát thải khí carbon (Ảnh: AP).

Cuộc khủng hoảng thiếu điện ở Trung Quốc gần đây đã trở nên nghiêm trọng sau khi hơn một nửa tỉnh thành ở nước này phải chịu đựng tình trạng cắt điện luân phiên.

Theo SCMP, việc cắt điện là khá phổ biến ở Trung Quốc nhưng thường chỉ giới hạn ở lĩnh vực công nghiệp. Nhưng tần suất mất điện đã tăng lên kể từ nửa cuối năm ngoái và đến nay xảy ra ở các hộ gia đình.

Tổng cộng có 16 trong số 31 tỉnh thành ở Trung Quốc đã phải cắt điện luân phiên nhằm đáp ứng các mục tiêu giảm phát thải hàng năm mà chính phủ đề ra, sau khi không đạt được mục tiêu này vào đầu năm.

Không đạt mục tiêu giảm phát thải khí carbon hàng năm do chính phủ đưa ra, chính quyền nhiều tỉnh thành ở Trung Quốc phải áp dụng các biện pháp gấp rút như cắt điện luân phiên trên diện rộng, nhưng tình trạng thiếu nguồn than cũng là nguyên nhân làm bùng nổ cuộc khủng hoảng thiếu điện hiện nay.

Việc cắt điện luân phiên đã tác động tới nhiều ngành sản xuất tại Trung Quốc, từ công nghiệp nặng cho tới công nghiệp nhẹ, và làm đảo lộn cuộc sống của người dân.

Trước tình trạng trên, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC), cơ quan hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc, hôm 29/9 thông báo sẽ "thực hiện nhiều biện pháp để tăng cường điều chỉnh cung và cầu", nhưng không tiết lộ chi tiết về kế hoạch cải cách giá điện. "Giá điện và khí đốt phục vụ sinh hoạt của người dân về cơ bản vẫn ổn định, theo đúng chính sách giá", NDRC khẳng định.

Điện tại Trung Quốc thường được bán theo tỷ giá quy định, cho phép các tỉnh được tăng hoặc giảm tối đa 10%. Một số tỉnh đã tăng tối đa 10%, vì vậy họ có thể phải tăng thêm để bù vào giá than tăng cao chót vót.

Trước đó, vào tháng 7, NDRC đã ám chỉ rằng cơ quan này có thể thay đổi cách thiết lập giá điện dân dụng để thích ứng tốt hơn chi phí nguồn cung điện.

NDRC cũng cho biết sẽ "nâng năng lực sản xuất than", "đảm bảo rằng các nhà máy điện than được phân phối đầy đủ" và "tăng cường nhập khẩu than một cách có trật tự".

Tổng công ty Lưới điện Nhà nước Trung Quốc hôm 27/9 thông báo sẽ bắt đầu thực hiện các chính sách để giải quyết tình trạng cắt điện và đảm bảo khôi phục nguồn cung cấp điện và sinh kế cho người dân.

16 tỉnh thành bị cắt điện luân phiên

Theo báo Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (SCMP), cuộc khủng hoảng nguồn cung cấp điện của Trung Quốc đã leo thang trong tuần qua, với hơn một nửa đất nước phải chịu dựng tình trạng cắt điện, khiến nó trở thành một trong những ví dụ điển hình nhất về việc phân bổ năng lượng trong lịch sử Trung Quốc, đặc biệt là khi xem xét tác động của nó đối với các hộ gia đình.

Tháng trước, NDRC đã chỉ trích "mức độ tiêu thụ điện cao" của 9 tỉnh gồm Quảng Đông, Giang Tô, Vân Nam, Phúc Kiến, Thiểm Tây, Quảng Tây, Ninh Hạ, Thanh Hải và Tân Cương. Những tỉnh này bị cảnh cáo vì ngày càng sử dụng nhiều năng lượng thay vì cắt giảm.

Bà Meng Wei, phát ngôn viên của NDRC, cho biết: "Thêm 10 tỉnh không đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ tiêu thụ điện và tình hình tiết kiệm năng lượng quốc gia đang rất nghiêm trọng".

Một năm trước, Chủ tịch Tập Cận Bình đã đưa ra cam kết rằng Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia không còn phát thải carbon vào năm 2060. Đầu năm nay, Bắc Kinh đã vạch ra những chiến lược nhằm tăng cường nỗ lực kiểm soát việc sử dụng năng lượng quốc gia bằng cách cắt giảm 3% mức tiêu thụ điện trên mức tương ứng với GDP vào năm 2021.

Cuộc khủng hoảng năng lượng trở nên trầm trọng hơn vào những tháng cuối năm, do các tỉnh thành ở Trung Quốc đứng trước sức ép phải đạt mục tiêu đề ra. Đây thực sự là "thời hạn khó" vì các tỉnh thành sẽ không còn thời gian và cơ hội để khắc phục thiếu sót như thời hạn đầu năm.

Chính quyền Bắc Kinh cũng tăng gấp đôi các nỗ lực bằng cách thúc giục các chính quyền địa phương hạn chế các hoạt động tiêu thụ nhiều điện cũng như các dự án phát thải khí carbon lớn.

Tuy nhiên, đã có những lo ngại rằng việc hạn chế sử dụng điện của các tỉnh thành như hiện nay là thiển cận và không công bằng đối với người sử dụng, đặc biệt là người tiêu dùng hộ gia đình.

Hôm 26/9, Nhân dân Nhật báo của chính phủ nước này đã có bài viết chỉ trích các quan chức địa phương sử dụng các biện pháp "cưỡng bức" để đạt được các mục tiêu hàng năm về môi trường. Theo tờ báo này, chính quyền các tỉnh thành không nên áp dụng cách tiếp cận quá cứng nhắc như vậy.

Cựu Phó chủ tịch tại Trung tâm Nghiên cứu Phát triển của Hội đồng Nhà nước Liu Shijin cũng chỉ trích các tỉnh thành quá quan liêu trong việc thúc đẩy các mục tiêu giảm phát thải, cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.

Hai nguyên nhân chính

Nhiều chuyên gia cho rằng, nguyên nhân bùng nổ cuộc khủng hoảng thiếu điện hiện nay ở Trung Quốc không chỉ là do mục tiêu giảm khí thải carbon, mà còn do tình trạng thiếu than đá trầm trọng khiến giá cả tăng vọt.

Giáo sư Yunhe Hou tại Khoa Kỹ thuật Điện và Điện tử (Đại học Hong Kong) cho rằng: "Khó có thể nói đâu là nguyên nhân chính, thiếu than hay vì mục tiêu giảm khí thải cacbon. Nhưng tình trạng thiếu than hiện nay nghiêm trọng hơn nhiều so với trước đây".

Theo ông, thứ nhất là do giá than quá cao; thứ hai là chất lượng than của Trung Quốc quá kém nên không tạo ra đủ lượng điện. "Ngoài ra, một số vùng đã bắt đầu tích trữ than cho mùa đông, điều này càng làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu than đá", ông nói thêm.

Giá nguyên liệu thô đã có xu hướng tăng trong cả năm và lên mức cao kỷ lục trong những tuần gần đây vì không chỉ Trung Quốc mà các nước khác, bao gồm cả Ấn Độ, đang thiếu nguồn than khẩn cấp. Tuần trước, Cơ quan Quản lý Năng lượng Quốc gia đã thúc đẩy một số tỉnh Tây Bắc tăng sản lượng sản xuất than đá.

Theo Dân trí

Ấn Độ cạn kho, Trung Quốc mua bằng mọi giá, giá than cao kỷ lụcẤn Độ cạn kho, Trung Quốc mua bằng mọi giá, giá than cao kỷ lục
Vì sao nhiều cường quốc rơi vào tình cảnh Vì sao nhiều cường quốc rơi vào tình cảnh "khát” năng lượng
Các nhà xuất khẩu khí đốt Nga đang giao dịch với mức chiết khấu lớnCác nhà xuất khẩu khí đốt Nga đang giao dịch với mức chiết khấu lớn
Bài học từ khủng hoảng giá năng lượng tại châu ÂuBài học từ khủng hoảng giá năng lượng tại châu Âu
Thiếu hụt năng lượng toàn cầu: nguồn cung hay khủng hoảng khu vựcThiếu hụt năng lượng toàn cầu: nguồn cung hay khủng hoảng khu vực
Giá khí đốt ở châu Âu phá kỷ lục lịch sử, tăng lên trên 1.100 USD/1.000 m3Giá khí đốt ở châu Âu phá kỷ lục lịch sử, tăng lên trên 1.100 USD/1.000 m3

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC HCM 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC ĐN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,670 ▲340K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,660 ▲340K 11,809 ▲209K
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,620 ▲400K 12,140 ▲350K
Trang sức 99.9 11,610 ▲400K 12,130 ▲350K
NL 99.99 11,620 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,620 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
Miếng SJC Thái Bình 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Nghệ An 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Hà Nội 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Cập nhật: 22/04/2025 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16134 16401 16977
CAD 18234 18510 19127
CHF 31302 31681 32337
CNY 0 3358 3600
EUR 29201 29471 30504
GBP 33916 34305 35246
HKD 0 3211 3414
JPY 177 181 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15255 15845
SGD 19304 19583 20109
THB 696 759 814
USD (1,2) 25665 0 0
USD (5,10,20) 25703 0 0
USD (50,100) 25731 25765 26110
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,740 25,740 26,100
USD(1-2-5) 24,710 - -
USD(10-20) 24,710 - -
GBP 34,310 34,403 35,316
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,544 31,642 32,528
JPY 181.17 181.5 189.64
THB 745.51 754.72 807.03
AUD 16,440 16,500 16,947
CAD 18,517 18,577 19,078
SGD 19,515 19,575 20,195
SEK - 2,677 2,773
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,934 4,070
NOK - 2,462 2,550
CNY - 3,510 3,605
RUB - - -
NZD 15,246 15,387 15,840
KRW 16.94 17.66 18.98
EUR 29,418 29,442 30,699
TWD 720.83 - 872.03
MYR 5,528.36 - 6,236.43
SAR - 6,793.14 7,150.47
KWD - 82,517 87,741
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,710 25,730 26,070
EUR 29,308 29,426 30,519
GBP 34,090 34,227 35,201
HKD 3,272 3,285 3,392
CHF 31,441 31,567 32,486
JPY 180.18 180.90 188.52
AUD 16,314 16,380 16,909
SGD 19,515 19,593 20,127
THB 761 764 798
CAD 18,411 18,485 19,002
NZD 15,317 15,827
KRW 17.40 19.19
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25720 25720 26080
AUD 16306 16406 16974
CAD 18403 18503 19055
CHF 31643 31673 32570
CNY 0 3508.4 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29415 29515 30393
GBP 34206 34256 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.78 182.28 188.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15374 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19468 19598 20332
THB 0 725.8 0
TWD 0 790 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11500000 11500000 12100000
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,730 25,780 26,100
USD20 25,730 25,780 26,100
USD1 25,730 25,780 26,100
AUD 16,356 16,506 17,574
EUR 29,560 29,710 30,886
CAD 18,361 18,461 19,780
SGD 19,542 19,692 20,167
JPY 181.95 183.45 188.14
GBP 34,332 34,482 35,315
XAU 12,048,000 0 12,252,000
CNY 0 3,394 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 14:00