Tin tức kinh tế ngày 23/07: Tiêm chủng vắc xin sẽ góp phần phục hồi nền kinh tế

19:00 | 23/07/2021

550 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tiêm chủng vắc xin sẽ góp phần phục hồi nền kinh tế; Nhiều doanh nghiệp công bố hoàn thành kế hoạch năm;Giá xăng dầu quay đầu giảm; VN-Index giảm mạnh; Lượng hàng hóa tại các siêu thị tăng gấp 3 lần là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 23/07

Tiêm chủng vắc xin sẽ góp phần phục hồi nền kinh tế

Các chuyên gia kinh tế nhận định, triển vọng kinh tế 6 tháng cuối năm nay phụ thuộc rất lớn vào tốc độ, quy mô tiêm chủng và các biện pháp chống dịch Covid-19 của chúng ta hiện nay.

Theo chuyên gia kinh tế vĩ mô Phạm Thế Anh, tốc độ bao phủ vắc xin không đồng đều giữa các quốc gia có thể dẫn tới sự phân hóa về tăng trưởng trong thập niên tới.

Các biện pháp phòng chống dịch và chiến dịch tiêm chủng là yếu tố quan trọng giúp phục hồi nền kinh tế
Các biện pháp phòng, chống dịch và tiêm chủng là yếu tố quan trọng giúp phục hồi nền kinh tế

Trong quý 2, bức tranh kinh tế toàn cầu cho thấy những điểm sáng do sự phục hồi mạnh mẽ của các nền kinh tế lớn như Mỹ và Trung Quốc. Sự phục hồi ở các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Đức phụ thuộc vào tốc độ, tỷ lệ tiêm chủng trên diện rộng. Trung bình các nước Anh, Mỹ đạt 60% dân số đã tiêm vắc xin.

Chỉ số tăng trưởng chưa phản ánh hết những khó khăn tương lai. Nền kinh tế đang phải đối mặt với sự đình trệ trong các hoạt động giao thương, đầu tư thương mại, hàng hoá - ông Thế Anh nói.

Theo ông Thế Anh, Việt Nam đang đi sau về tốc độ cũng như tỷ lệ tiêm chủng vắc xin so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Điều này tạo không ít thách thức cho Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nửa cuối năm nay.

“Tương lai của nền kinh tế phụ thuộc vào một chiến lược vắc xin rõ ràng và hiệu quả ngay từ bây giờ”, ông cảnh báo. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng sẽ còn chịu tác động từ cách phòng, chống dịch.

Nhiều doanh nghiệp công bố hoàn thành kế hoạch năm

Chỉ trong 6 tháng, nhiều doanh nghiệp đã công bố kết quả hoạt động kinh doanh tăng đột phá, hoàn thành cả kế hoạch năm trước sự ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19

Công ty Cổ phần Bất động sản Thế Kỷ - CRE (công ty của shark Hưng) vừa công bố hoạt động kinh doanh trong nửa đầu năm. Theo báo cáo tài chính, luỹ kế 6 tháng đầu năm của công ty đạt 3.685 tỷ đồng doanh thu thuần, cao gấp 5 lần so với cùng kỳ, lợi nhuận sau thuế đạt 251 tỷ đồng, tăng 80,6% so với nửa đầu năm 2020. Năm 2021, CRE đặt mục tiêu doanh thu thuần 5.000 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 408 tỷ. Như vậy, so với kế hoạch đưa ra, CRE đã hoàn thành 74% mục tiêu doanh thu và 61,5% mục tiêu về lợi nhuận.

Công ty cổ phần Vàng Bạc Đá Quý Phú Nhuận – PNJ vừa công bố lãi sau thuế 736 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm, tăng gần 300 tỷ so với cùng kỳ và hoàn thành 60% kế hoạch cả năm.

Công ty cổ phần Chứng khoán Everest – EVS cũng công bố báo cáo tài chính 6 tháng/2021 với doanh thu hoạt động đạt gần 378 tỷ đồng, tăng hơn 2 lần so với nửa đầu năm ngoái, lợi nhuận trước thuế tăng gần 24 lần so với cùng kỳ. Được biết, EVS đặt mục tiêu doanh thu cả năm 2021 là 238,4 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 81,2 tỷ đồng. Như vậy, với kết quả đạt được, doanh nghiệp này đã vượt mục tiêu cả năm với lần lượt 158% và 272%.

Cùng với EVS, công ty cổ phần Chứng khoán Rồng Việt mới đây cũng công bố vượt 70% mục tiêu lợi nhuận cả năm chỉ trong 6 tháng đầu năm.

Cổ phần Tập đoàn VsetGroup cũng công bố kết quả hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm với doanh thu đạt 470 tỷ đồng, tăng 320 tỷ so với cùng kỳ và hoàn thành 70% kế hoạch doanh thu cả năm. So với các doanh nghiệp trên, VsetGroup có thâm niên nhỏ hơn, tuy nhiên, kết quả đạt được phần nào cho thấy sự vươn mình mạnh mẽ của doanh nghiệp này và những thành tích đáng kể, giúp đứng vững trước ảnh hưởng nặng nề của làn sóng Covid-19 thời gian qua.

Giá xăng dầu quay đầu giảm

Giá xăng dầu trên thế giới hôm nay: Trong khi giá xăng dầu trong nước vẫn giữ mức tăng từ lần điều chỉnh trước thì trên thế giới lại biến động suốt cả tuần qua.

Tại phiên giao dịch ngày 23/7, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 9/2021 giao dịch ở mức 71,79 USD/thùng, giảm 0,12 USD/thùng trong phiên.

Trong khi đó, giá dầu Brent giao tháng 9/2021 được niêm yết ở mức 73,70 USD/thùng, giảm 0,09 USD/thùng trong phiên.

VN-Index giảm mạnh

Rổ cổ phiếu VN30 có tới 26 mã giảm giá, trong khi chỉ có 4 mã tăng giá. Các cổ phiếu họ Vingroup giảm mạnh tạo áp lực lớn lên chỉ số VN-Index. Đáng chú ý, VRE giảm tới 4,3%, VHM giảm 3,1%, VIC giảm 2,1%. Các mã lớn khác như: HPG, GAS, MSN, KDH, MWG, PNJ... đều có mức giảm sâu. Nhóm VN30 có 4 mã tăng giá gồm: VNM, POW, STB và FPT.

Đà giảm cũng diễn ra ở nhóm cổ phiếu ngân hàng. Nhóm ngành này chỉ còn 3 mã tăng giá là LPB, MSB và STB. Mã SSB may mắn đứng ở mốc tham chiếu. Tất cả các mã còn lại đều giảm giá. Đặc biệt, cổ phiếu VAB sau 3 phiên tăng tới 64,5%, phiên hôm nay đã bất ngờ giảm 14,8% xuống giá sàn 20.100 đồng/cổ phiếu.

Ngoài ra, các mã VPB, VIB, VCB, NVB, EIB, CTG, ACB đều có mức giảm hơn 3%. Các mã BID, MBB, SHB, TPB giảm hơn 2%.

Tương tự ở nhóm cổ phiếu chứng khoán, các mã trụ cột trong nhóm này như: SSI, SHS, VND, VDS, MBS, HCM... đều có mức giảm sâu.

Nhóm ngành dầu khí cũng ghi nhận những diễn biến tiêu cực khi hàng loạt mã cổ phiếu đều ở chiều giảm giá. Cụ thể, PLX, PVB, PVC, PVD, PVS, BSR có mức giảm từ 1,1 - 3,9%.

Khối ngoại vẫn tiếp đà bán ròng từ phiên hôm qua (22/7). Cụ thể, khối ngoại bán ròng hơn 204 tỷ đồng trên HOSE, trong khi chỉ mua ròng 17,52 tỷ đồng trên UPCOM và hơn 14 tỷ đồng trên HNX. Với đà lao dốc cuối phiên hôm nay (23/7), VN-Index dường như xóa bỏ hết các nỗ lực tăng điểm trong phiên trước đó.

Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index giảm 24,84 điểm xuống mốc 1.268,83 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 582,2 triệu đơn vị, tương ứng gần 19.330 tỷ đồng Sàn HOSE ghi nhận 282 mã giảm giá, 97 mã tăng giá và 38 mã đứng giá.

Lượng hàng hóa tại các siêu thị tăng gấp 3 lần

Quyền Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội Trần Thị Phương Lan vừa cho biết, lượng hàng hoá thiết yếu, thực phẩm tươi sống... cung ứng cho thành phố rất dồi dào, không lo thiếu hàng.

Tại siêu thị Big C (thuộc Tập đoàn Central Retail) đã tăng nguồn cung, trong đó riêng thực phẩm tươi sống tăng gấp đôi lượng hàng, còn thực phẩm khô tăng 30% so với ngày thường.

Hệ thống siêu thị Aeon tại Hà Nội cũng tăng 200-400% lượng hàng thực phẩm tươi sống, 120-130% hàng thực phẩm khô. Việc tăng hàng cho các siêu thị của Aeon tại Hà Nội được chủ động từ cách đây một tuần.

Theo đại diện Công ty TNHH Aeon Việt Nam, bộ phận thu mua đã làm việc với các nhà cung cấp để tăng nguồn hàng trong tình huống khẩn cấp hơn. Aeon cũng tăng diện tích kho chứa, hàng đông lạnh và hàng tươi cấp đông...

Tương tự, Vinmart/Vinmart+ cũng tăng gấp ba hàng thực phẩm thiết yếu, trứng và rau xanh tăng gấp 5 lần. Các loại sản phẩm có thể dự trữ lâu như bí xanh, khoai tây... cũng nhiều hơn và làm việc với các nhà cung ứng để đảm bảo hàng trên kệ không bị trống.

Hiện nhiều địa phương đang yêu cầu các tài xế vận chuyển hàng hoá phải xét nghiệm Covid-19, thời gian mỗi nơi đưa ra khác nhau dù yêu cầu chung của Bộ Y tế là 72 giờ.Hơn nữa, vấn đề lưu thông hàng hóa trong khâu vận chuyển, mỗi địa phương chỉ đạo khác nhau dẫn đến khó khăn cả trong công tác xét nghiệm, con người, phương tiện vận chuyển...

Trước đó, Hà Nội đã có chỉ đạo tạo "luồng xanh" cho vận chuyển hàng mùa dịch. Trên cơ sở này, Sở Công Thương tập hợp, lên danh sách các điểm bán hàng phân phối, xe chở vận chuyển hàng thiết yếu của doanh nghiệp. Danh sách được chuyển sang Sở Giao thông Vận tải, để cấp mã ưu tiên cho các phương tiện vận chuyển, nhằm đưa hàng từ vùng sản xuất tới các siêu thị, cửa hàng tiện lợi, đảm bảo lưu thông thông suốt

M.C

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC HCM 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC ĐN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,700 ▲370K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,690 ▲370K 11,800 ▲200K
Cập nhật: 22/04/2025 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,520 ▲300K 12,040 ▲250K
Trang sức 99.9 11,510 ▲300K 12,030 ▲250K
NL 99.99 11,520 ▲300K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,520 ▲300K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Nghệ An 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Hà Nội 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Cập nhật: 22/04/2025 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16099 16366 16947
CAD 18238 18514 19137
CHF 31368 31747 32401
CNY 0 3358 3600
EUR 29217 29487 30523
GBP 33910 34300 35247
HKD 0 3218 3421
JPY 178 182 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15287 15875
SGD 19325 19605 20136
THB 697 760 814
USD (1,2) 25714 0 0
USD (5,10,20) 25753 0 0
USD (50,100) 25781 25815 26120
Cập nhật: 22/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 34,252 34,345 35,253
HKD 3,285 3,295 3,395
CHF 31,529 31,627 32,513
JPY 181.03 181.35 189.44
THB 745.19 754.4 807.64
AUD 16,415 16,474 16,915
CAD 18,517 18,576 19,078
SGD 19,518 19,579 20,198
SEK - 2,662 2,758
LAK - 0.91 1.28
DKK - 3,928 4,064
NOK - 2,451 2,539
CNY - 3,509 3,604
RUB - - -
NZD 15,245 15,386 15,834
KRW 16.9 - 18.94
EUR 29,370 29,393 30,645
TWD 721.13 - 873.02
MYR 5,533.92 - 6,241.2
SAR - 6,798.78 7,156.33
KWD - 82,613 87,857
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,760 26,100
EUR 29,263 29,381 30,473
GBP 34,115 34,252 35,226
HKD 3,277 3,290 3,397
CHF 31,400 31,526 32,443
JPY 180.36 181.08 188.70
AUD 16,321 16,387 16,917
SGD 19,511 19,589 20,123
THB 761 764 797
CAD 18,446 18,520 19,038
NZD 15,328 15,839
KRW 17.43 19.22
Cập nhật: 22/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25790 25790 26120
AUD 16279 16379 16944
CAD 18424 18524 19078
CHF 31638 31668 32546
CNY 0 3517.5 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29405 29505 30378
GBP 34222 34272 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.92 182.42 188.97
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15395 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19490 19620 20341
THB 0 726.8 0
TWD 0 790 0
XAU 12200000 12200000 12400000
XBJ 11700000 11700000 12400000
Cập nhật: 22/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,120
USD20 25,780 25,830 26,120
USD1 25,780 25,830 26,120
AUD 16,347 16,497 17,568
EUR 29,545 29,695 30,871
CAD 18,377 18,477 19,796
SGD 19,562 19,712 20,185
JPY 181.83 183.33 188.02
GBP 34,311 34,461 35,248
XAU 12,198,000 0 12,402,000
CNY 0 3,398 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 18:00