Tin tức kinh tế ngày 19/07: Hà Nội đề xuất tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách lên 42%

19:21 | 19/07/2021

561 lượt xem
|
Chưa cần mở thêm hãng hàng không mới; Hà Nội đề xuất tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách lên 42%; Chứng khoán lao dốc; Nhiều doanh nghiệp rút lui do ảnh hưởng Covid-19 là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 19/07

Hà Nội đề xuất tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách lên 42%

Sáng 19/7, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có buổi làm việc với lãnh đạo chủ chốt của thành phố Hà Nội về công tác phòng, chống dịch Covid-19; tình hình phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2021; những định hướng lớn phát triển Thủ đô trong thời gian tới.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì làm việc với TP Hà Nội về công tác phòng chống dịch Covid-19 và những nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong những tháng cuối năm 2021. (Ảnh: Thanh Hải)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì làm việc với TP Hà Nội về công tác phòng chống dịch Covid-19 và những nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong những tháng cuối năm 2021. (Ảnh: Thanh Hải)

Tại buổi làm việc, lãnh đạo TP Hà Nội cho biết bên cạnh những kết quả tích cực về kinh tế xã hội thì hiện nay TP đang đứng trước những thách thức rất lớn. Trong đó, lớn nhất là diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 và sự quá tải về hạ tầng kinh tế - xã hội đang ngày càng gia tăng; hệ thống giao thông kết nối liên vùng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển, cũng như vị thế của Hà Nội là trung tâm liên kết Vùng Thủ đô, Vùng Đồng bằng sông Hồng, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đó còn là sự quá tải dịch vụ công thiết yếu; việc xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường...

Từ những thách thức nói trên, TP Hà Nội đã nêu 9 nhóm đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành trung ương nhằm tạo tiền đề cho thành phố thực hiện các nhiệm vụ cho giai đoạn 2021-2025.

Trong đó đáng chú ý, TP Hà Nội đề xuất cho phép tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách cho thành phố lên mức 42% (bằng giai đoạn 2011-2016). Theo TP Hà Nội, tỷ lệ này nhằm bảo đảm mặt bằng chi và nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ phát triển Thủ đô giai đoạn 2022-2025; hỗ trợ thành phố thực hiện các dự án giao thông trọng điểm…

Căn cứ dự báo tình hình quốc tế, kịch bản tăng trưởng của cả nước và tình hình sản xuất, kinh doanh 6 tháng đầu năm, TP Hà Nội đã dự báo và xây dựng các kịch bản tăng trưởng 6 tháng cuối năm, cụ thể: Kịch bản 1 (kịch bản điều hành): Tăng trưởng Quý III đạt 8,59%, Quý IV đạt 9,12% và dự báo cả năm đạt 7,5%; Kịch bản 2: Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Quý III mới kiểm soát được dịch, các ngành dịch vụ vẫn chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, phục hồi chậm. GRDP cả năm 2021 dự kiến đạt 6,5-7,0%.

Phiên giao dịch ngày 19/7, ngoài nhóm cổ phiếu y tế diễn biến tích cực, hầu hết các nhóm cổ phiếu còn lại đều giảm sâu.

Chứng khoán lao dốc

26 mã cổ phiếu ngân hàng đang giao dịch trên sàn chứng khoán đều giảm giá. Cụ thể, tại nhóm cổ phiếu trụ cột ngân hàng, TCB, TPB, VIB, VPB, CTG, LPB, MSB giảm xuống giá sàn. Các mã còn lại đều có mức giảm sâu, mức giảm thấp nhất thuộc về OCB với 3,3%.

Chứng khoán lao dốc, thị trường 'rực lửa' ngay phiên sáng đầu tuần
Chứng khoán lao dốc, thị trường 'rực lửa' ngay phiên sáng đầu tuần

Tất cả các mã cổ phiếu dầu khí cũng đều ở chiều giảm giá; trong đó, PVC và PVD giảm xuống giá sàn. Các mã BSR, OIL, PLX, PVS có mức giảm từ 4,1% - 9,3%.

Trong nhóm cổ phiếu chứng khoán, ngoài TVB tăng giá thì tất cả các mã còn lại đều giảm rất sâu; trong đó, VCI, VDS, VIX, PSI, MBS, HCM, FTS, CTS, AGR, APS, APG, ART giảm xuống giá sàn. Các mã còn lại nhiều mã giảm sát xuống giá sàn.

Các nhóm cổ phiếu bất động sản, công nghệ thông tin, xây dựng và vật liệu, bảo hiểm... cũng chìm sâu trong sắc đỏ.

Trong rổ cổ phiếu VN30 có 29 mã giảm sâu và chỉ còn 1 mã ở chiều tăng giá là KDH. Các mã vốn hóa đầu ngành đều giảm sâu như: VNM, VJC, VIC, VHM, VRE, HPG, FPT, MWG, BVH, PNJ...

Điểm tiêu cực nữa là khối ngoại bán ròng trong phiên hôm nay. Theo đó, khối ngoại bán ròng 98,35 tỷ đồng trên HOSE và 21,17 tỷ đồng trên HNX, trong khi mua ròng 15,43 tỷ đồng trên HNX.

Điểm sáng trong phiên hôm nay đến từ nhóm cổ phiếu ngành y tế. Hàng loạt mã cổ phiếu ngành này tăng trần như: BIO, CDP, DBT, DDN, JVC, PBC,VMD. Các mã YTC, TVP, TTD, TRA, PPP, OPC, DHG... cũng đều có mức tăng rất mạnh.

Chốt phiên giao dịch ngày 19/7, VN-Index giảm 55,8 điểm xuống 1.243,51 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 731 triệu đơn vị, tương ứng hơn 21.848 tỷ đồng. Toàn sàn có 346 mã giảm giá, 50 mã tăng giá và 21 mã đứng giá.

HNX-Index giảm 15,7 điểm xuống 292,06 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 126,2 triệu đơn vị, tương ứng hơn 2.787,4 tỷ đồng. Toàn sàn có 186 mã giảm giá, 41 mã tăng giá và 142 mã đứng giá.

UPCOM - Index giảm 2,74 điểm xuống 82,59 điểm. Khối lượng giao dịch đạt gần 82 triệu đơn vị, tương ứng hơn 1.316,4 tỷ đồng. Toàn sàn có 195 mã giảm giá, 89 mã tăng giá và 662 mã đứng giá.

Nhiều doanh nghiệp rút lui do ảnh hưởng Covid-19

Lượng doanh nghiệp quy mô lớn rút khỏi thị trường tăng trong nửa đầu năm nay, phản ánh sức chống chịu của họ đã suy giảm bởi dịch bệnh.

Nội dung này nêu trong báo cáo kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm và kế hoạch nửa cuối năm vừa được Chính phủ gửi Quốc hội.

Chính phủ cho biết, 6 tháng đầu năm kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát với CPI bình quân 6 tháng tăng 1,47%, thấp nhất từ năm 2016.

Thị trường tiền tệ, ngoại hối, tỷ giá ổn định, tín dụng phục hồi, tăng 5,68% so với cuối năm 2020; mặt bằng lãi suất cho vay giảm. Thu ngân sách nhà nước 6 tháng đạt 58,2% dự toán, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2020. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu có tốc độ tăng cao, 6 tháng tăng 32,2%...

Nhưng Covid-19 đã tác động không nhỏ tới hoạt động đầu tư, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong nửa đầu năm tăng gần 25%.

"Đáng chú ý, số lượng các doanh nghiệp quy mô lớn rút lui khỏi thị trường tăng, phản ánh sức chống chịu của các doanh nghiệp đã suy giảm bởi dịch bệnh", báo cáo nêu.

Trước đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO), 6 tháng đầu năm nay cả nước có gần 67.100 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký 942.600 tỷ đồng. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp 14,1 tỷ đồng. Tính cả số đơn vị quay trở lại làm việc (93.200 doanh nghiệp), bình quân mỗi tháng có 15.500 doanh nghiệp lập mới và quay trở lại hoạt động.

Nhưng, số giải thể tăng gần 34%, doanh nghiệp đang chờ làm thủ tục giải thể tăng xấp xỉ 26% hay ngừng kinh doanh tăng hơn 22%... Lĩnh vực tạm ngừng kinh doanh nhiều nhất là bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ôtô, xe máy (hơn 37%), xây dựng gần 14%, công nghiệp chế biến chế tạo gần 12%...

Bình quân mỗi tháng có 11.700 doanh nghiệp rút khỏi thị trường.

Chưa cần mở thêm hãng hàng không mới

Các hãng hàng không trong nước cho rằng việc lập hãng bay mới hiện nay là chưa phù hợp và Bộ Giao thông Vận tải cũng cùng quan điểm này.

Bộ Giao thông Vận tải vừa gửi Thủ tướng báo cáo về khả năng đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không các hãng bay Việt Nam trong bối cảnh dịch Covid-19. Bộ cho biết hôm 15/7 đã chủ trì cuộc làm việc với Vietnam Airlines, Vietjet, Bamboo Airways, Vietravel Airlinnes và công ty cổ phần IPP Air Cargo - đơn vị của ông Johnathan Hạnh Nguyễn đang xin thành lập hãng bay chở hàng.

Sau cuộc họp, đại diện các hãng hàng không đều cùng quan điểm cho rằng, việc thành lập hãng hàng không mới (bao gồm cả hãng hàng không chuyển chở hàng hoá) là chưa phù hợp trong giai đoạn thị trường khó khăn vì dịch bệnh hiện nay.

"Công ty cổ phần IPP Air Cargo hoàn toàn có thể đề nghị thành lập hãng hàng không vận chuyển hàng hoá theo đúng quy định của pháp luật vào thời điểm sau khi thị trường hàng không phục hồi (dự kiến năm 2022)", Bộ Giao thông Vận tải cho hay.

Bộ cũng đánh giá tình hình hiện nay của các hãng hàng không Việt Nam là hết sức khó khăn. Các doanh nghiệp đang phải cố gắng tìm mọi giải pháp để có nguồn thu để duy trì sự tồn tại, trong đó có vận chuyển hàng hóa. Các hãng đã phải chở hàng hoá trong bụng tàu bay, trên khoang hành khách và chuyển đối cấu hình một số máy bay chở khách sang chở hàng.

Cơ quan quản lý khẳng định các hãng cơ bản có thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong những trường hợp nhu cầu đặc biệt, các hãng hoàn toàn có thể trực tiếp cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hoá hoặc thuê tàu bay chuyên dụng để vận chuyển hàng hoá.

Mới đây, lãnh đạo Vietnam Airlines cũng cho biết ý định thành lập một hãng bay chuyên chở hàng sau khi thị trường hàng không phục hồi. Hiện tại, doanh nghiệp này đã chuyển đổi cấu hình 5 tàu A350 và 2 tàu A321 từ chở khách sang chở hàng

M.C

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,000 151,000
Hà Nội - PNJ 148,000 151,000
Đà Nẵng - PNJ 148,000 151,000
Miền Tây - PNJ 148,000 151,000
Tây Nguyên - PNJ 148,000 151,000
Đông Nam Bộ - PNJ 148,000 151,000
Cập nhật: 20/10/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,950 ▲250K 15,150 ▲50K
Trang sức 99.9 14,940 ▲250K 15,140 ▲50K
NL 99.99 14,950 ▲250K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,950 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,050 ▲250K 15,150 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,050 ▲250K 15,150 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,050 ▲250K 15,150 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 15,050 ▲100K 15,150 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 15,050 ▲100K 15,150 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 15,050 ▲100K 15,150 ▲50K
Cập nhật: 20/10/2025 11:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,505 ▲10K 15,152 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,505 ▲10K 15,153 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,502
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,462 ▲5K 1,492 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 143,223 ▲495K 147,723 ▲495K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,561 ▲375K 112,061 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 94,116 ▲340K 101,616 ▲340K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,671 ▲305K 91,171 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,642 ▲291K 87,142 ▲291K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,873 ▲209K 62,373 ▲209K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Cập nhật: 20/10/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17459
CAD 18272 18548 19158
CHF 32548 32932 33580
CNY 0 3470 3830
EUR 30097 30371 31392
GBP 34583 34976 35916
HKD 0 3261 3463
JPY 167 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14799 15388
SGD 19804 20085 20611
THB 719 782 836
USD (1,2) 26079 0 0
USD (5,10,20) 26120 0 0
USD (50,100) 26148 26168 26356
Cập nhật: 20/10/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,146 26,146 26,356
USD(1-2-5) 25,101 - -
USD(10-20) 25,101 - -
EUR 30,334 30,358 31,498
JPY 171.23 171.54 178.63
GBP 35,000 35,095 35,908
AUD 16,911 16,972 17,409
CAD 18,510 18,569 19,090
CHF 32,901 33,003 33,678
SGD 19,969 20,031 20,650
CNY - 3,650 3,746
HKD 3,341 3,351 3,433
KRW 17.16 17.9 19.21
THB 768.57 778.06 827.58
NZD 14,836 14,974 15,319
SEK - 2,758 2,837
DKK - 4,058 4,173
NOK - 2,584 2,658
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,845.02 - 6,553.47
TWD 778.09 - 936.48
SAR - 6,927.13 7,248.48
KWD - 84,043 88,866
Cập nhật: 20/10/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,133 30,254 31,337
GBP 34,764 34,904 35,842
HKD 3,325 3,338 3,441
CHF 32,622 32,753 33,642
JPY 170.67 171.36 178.22
AUD 16,809 16,877 17,399
SGD 19,994 20,074 20,589
THB 782 785 818
CAD 18,462 18,536 19,045
NZD 14,875 15,352
KRW 17.79 19.45
Cập nhật: 20/10/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26356
AUD 16800 16900 17503
CAD 18450 18550 19151
CHF 32786 32816 33703
CNY 0 3660.4 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30268 30298 31323
GBP 34880 34930 36033
HKD 0 3390 0
JPY 170.8 171.3 178.31
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.146 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14914 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19950 20080 20814
THB 0 748.3 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 15000000 15000000 15100000
SBJ 13000000 13000000 15100000
Cập nhật: 20/10/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,135 26,185 26,356
USD20 26,135 26,185 26,356
USD1 23,846 26,185 26,356
AUD 16,827 16,927 18,065
EUR 30,377 30,377 31,743
CAD 18,373 18,473 19,814
SGD 20,008 20,158 21,101
JPY 170.96 172.46 177.31
GBP 34,928 35,078 35,908
XAU 15,148,000 0 15,302,000
CNY 0 3,531 0
THB 0 783 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/10/2025 11:00