Thủ tướng: Quy hoạch phải đi trước một bước với tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược

09:07 | 01/12/2022

1,199 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ngày 30/11, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị đô thị toàn quốc năm 2022 phổ biến Nghị quyết số 148/NQ-CP ngày 11/11/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về "Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".
Thủ tướng: Quy hoạch phải đi trước một bước với tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trị Hội nghị

Đồng chủ trì Hội nghị có đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị. Cùng dự Hội nghị tại điểm cầu Trụ sở Chính phủ có các đồng chí: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, thành phố Hà Nội, các tổ chức, chuyên gia, đối tác quốc tế. Tại điểm cầu trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, lãnh đạo các đô thị.

Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị đã trình bày nội dung cơ bản trong Chương trình hành động của Chính phủ; lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương đã trình bày các tham luận về xây dựng và hoàn thiện chính quyền đô thị; phát triển hạ tầng giao thông đô thị; xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển đô thị và định hướng đô thị hóa; các vấn đề đặt ra, tác động của biến đổi khí hậu tới phát triển đô thị; kinh nghiệm và định hướng phát triển đô thị tại một số địa phương như Hà Nội, TPHCM, Quảng Ninh; xây dựng đô thị thông minh… Hội nghị cũng nghe ý kiến của đại diện các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Chương trình Định cư con người Liên Hợp Quốc, với cam kết đồng hành, hỗ trợ, ủng hộ Việt Nam trong quá trình thực hiện chương trình nghị sự đô thị mới.

Kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Hội nghị được tổ chức trong dịp Ngày Đô thị Việt Nam và Ngày Đô thị hóa thế giới (8/11), cả nước tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ năm 2022, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết chuyên đề của Trung ương. Hội nghị thể hiện tinh thần được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh là "tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt", Chính phủ ban hành chương trình hành động thực hiện để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Như vậy, từ chủ trương của Đảng tới việc thể chế hóa bằng các cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bố trí nguồn lực, tổ chức thực hiện quy hoạch, xây dựng và quản lý phát triển đô thị đã có một quá trình liên tục, xuyên suốt.

Thủ tướng dành nhiều thời gian phân tích về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của đô thị để các cấp, các ngành có nhận thức đúng tầm, hành động phù hợp, hiệu quả theo tinh thần phát triển đô thị là một động lực phát triển, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.

Theo đó, đô thị có vai trò quan trọng trong tổ chức không gian phát triển, bố trí nơi ở, sinh hoạt cho người dân; là nơi quy tụ các trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội, là nơi cung cấp hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng thiết yếu và nguồn lực bao gồm cả nguồn lực tài chính cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao cho các hoạt động gắn với đời sống kinh tế - xã hội.

Hiện nay đô thị chỉ chiếm một diện tích nhỏ, nhưng có đóng góp quan trọng và ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, đô thị và đến sự phát triển của con người. Đô thị hóa và phát triển đô thị là cơ hội đối với mỗi quốc gia, khu vực, địa phương để có thể phát triển và tăng trưởng đột phá về mọi mặt. Trên thế giới, các đô thị đang tạo ra đến 80% GDP toàn cầu, trong đó 100 thành phố lớn nhất chiếm khoảng 35% GDP toàn cầu. Tại Việt Nam, các đô thị đang đóng góp đến 70% GDP cả nước, 5 thành phố trực thuộc Trung ương mặc dù chỉ chiếm 2,9% về diện tích và khoảng 22% về dân số nhưng năm 2020 đã đóng góp tới 46,8% GDP cả nước.

Thủ tướng: Quy hoạch phải đi trước một bước với tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược
Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.

Hiện nay, hơn 50% dân số đang sống tại khu vực đô thị. Dự báo đến 2050 khoảng 70% cư dân trên toàn thế giới sẽ sống tại khu vực đô thị, trong đó gần 90% diễn ra ở châu Á và châu Phi. Thủ tướng nhấn mạnh, đô thị hóa là xu thế tất yếu khách quan của thế giới, nhưng nếu phát triển đô thị không đúng hướng, không chuẩn mực, không bài bản sẽ dẫn tới nhiều hậu quả.

Thời gian tới, cùng với thời cơ và bối cảnh phát triển chung, trên tinh thần kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, việc quan tâm hoạch định chính sách, giải pháp thúc đẩy quá trình đô thị hóa, phát triển đô thị có kế hoạch, có lộ trình là nhiệm vụ quan trọng.

"Có thể nói, những nền văn minh, sự sáng tạo, đổi mới đều có thể tìm thấy ở khu vực đô thị, các nguồn lực phát triển đều được tạo ra từ đô thị, động lực phát triển kinh tế xã hội cũng từ đô thị mà ra. Ta có thể tìm thấy nhiều cơ hội hơn ở khu vực đô thị, và cũng chỉ có đô thị có thể cung cấp các giải pháp cho các vấn đề thách thức của nhân loại hiện nay như bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, phòng chống rủi ro không báo trước, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân", Thủ tướng nhấn mạnh.

Về chủ trương, chính sách phát triển đô thị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành và triển khai hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển đô thị theo xu thế thế giới và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Văn kiện của nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng đã thể hiện sự quan tâm và có chủ trương định hướng lãnh đạo về phát triển đô thị. Ngay từ Đại hội IV, vấn đề công nghiệp hóa gắn với đô thị hóa đã được đặt ra. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao và xác định "lấy các đô thị làm động lực phát triển vùng" là một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.

Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII, Bộ Chính trị lần đầu tiên đã ban hành riêng một nghị quyết để chỉ đạo cụ thể về quy hoạch, xây dựng và quản lý phát triển bền vững đô thị. Ngay sau đó, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị với nhiều tiêu chí cụ thể và 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.

Các ý kiến tại hội nghị thống nhất đánh giá, sau hơn 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm vừa qua, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị ở nước ta đạt được nhiều kết quả rất quan trọng. Đô thị hoá và phát triển đô thị trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Đến cuối năm 2020, hệ thống đô thị nước ta đã có 862 đô thị các loại, phân bổ tương đối đồng đều trong cả nước; tỉ lệ đô thị hoá xác định theo địa bàn có chức năng đô thị đã tăng từ 30,5% năm 2010 lên 41% tháng 6/2022.

Không gian đô thị được mở rộng; hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ và hiệu quả hơn. Chất lượng sống của cư dân đô thị từng bước được nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Diện mạo kiến trúc, công trình của đô thị đã có nhiều thay đổi theo hướng hiện đại, vừa giao lưu với thế giới, vừa kế thừa, phát huy và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền.

Hệ thống đô thị quốc gia đã phát triển mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của mỗi vùng. Bước đầu đã hình thành cực tăng trưởng kinh tế và trung tâm đổi mới sáng tạo, khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo tại các đô thị lớn.

Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị đạt trung bình từ 12 - 15%, cao gấp 1,5 - 2 lần so với mặt bằng chung cả nước. Các đô thị đã đóng góp quan trọng trong giải quyết việc làm, tăng phúc lợi xã hội, tạo đột phá trong thu hút đầu tư, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng ở mức cao, đóng góp khoảng 70% GDP cả nước.

Đồng tình với các đánh giá nói trên, song Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng nêu rõ, sau hơn 10 năm thực hiện điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam, bên cạnh nhiều kết quả đạt được rất quan trọng, đô thị Việt Nam cũng còn rất nhiều khó khăn, vướng mắc còn tồn tại và các thách thức cần vượt qua.

Thủ tướng nhấn mạnh một số vấn đề như quá tải hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, thiếu nhà ở xã hội, tác động, rủi ro từ biến đổi khí hậu, nhất là ngập lụt, phát thải khí nhà kính, hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục, văn hóa) chưa phát triển ngang tầm kinh tế, nhất là khi có diễn biến bất thường như đại dịch COVID-19, tình trạng quy hoạch treo ở một số nơi…

Thủ tướng cũng nhấn mạnh một số thách thức như làm thế nào để tăng trưởng của các đô thị không gây áp lực lên nguồn lực đất đai có hạn, không áp lực lên cơ sở hạ tầng và dịch vụ hiện có, không phát triển phân tán thiếu bền vững, không làm hạn chế các cơ hội của thế hệ tương lai. Cùng với đó, làm thế nào để nâng cao chất lượng đô thị, thực hiện thành công mục tiêu cải tạo chỉnh trang, tái thiết đô thị hiện hữu, khắc phục các điểm nghẽn trong phát triển, tạo lập các nguồn lực mới cho đô thị. Và làm thế nào để thúc đẩy sự hình thành và phát triển mới các mô hình đô thị bền vững hơn, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hòa, kinh tế số, ngày càng nâng cao năng lực chống chịu, thích ứng với những rủi ro.

Để hiện thực hóa những mục tiêu, chỉ tiêu trong Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ, Thủ tướng nhấn mạnh một số quan điểm, định hướng. Theo đó, chúng ta cần có tư duy, cách tiếp cận mới; bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn lấy thực tiễn làm thước đo; triển khai công việc có trọng tâm, trọng điểm, làm đến đâu chắc đến đó với những biện pháp, giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu lực, hiệu quả.

Cùng với đó, coi trọng và đầu tư thích đáng cho công tác quy hoạch. Đa dạng hóa, kết hợp, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực. Thống nhất nhận thức và hành động; có giải pháp phù hợp, xử lý các vấn đề đặt ra đạt hiệu quả cao nhất; phát huy mạnh mẽ dân chủ, trí tuệ tập thể. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và đánh giá, tổng kết kinh nghiệm.

Thủ tướng nhấn mạnh, chương trình hành động của Chính phủ đã đề ra 33 nhiệm vụ tập trung vào 5 nhóm nhiệm vụ giải pháp, mà trước hết là nhóm nhiệm vụ nâng cao, thống nhất nhận thức về đặc thù của đô thị, vai trò, vị thế của đô thị trong sự phát triển chung, xác định phát triển đô thị gồm 3 trụ cột chính là quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị.

Thứ hai là nhóm nhiệm vụ nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị; nâng cao năng lực trong các khâu xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch. Quy hoạch là công cụ nền tảng để định hướng phát triển đô thị, Thủ tướng nhấn mạnh.

"Quy hoạch phải đi trước một bước với tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược. Quy hoạch lúng túng, chậm chạp, không được đầu tư ngang tầm thì lãng phí nguồn lực, phát triển không bền vững, phát triển không đột phá. Công tác quy hoạch làm tốt thì mới tiết kiệm được nguồn lực, xác định và phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, chỉ ra và hóa giải những khó khăn, thách thức của địa phương, của vùng. Quy hoạch tổng thể nhưng thực hiện có thể phân kỳ phù hợp với nguồn lực. Chúng ta có thể kiên trì thực hiện trong 5 năm, 10 năm, 20 năm, thậm chí hàng trăm năm… và nếu tôn trọng, làm theo quy hoạch hoàn chỉnh thì chúng ta sẽ có một đô thị trật tự và phát triển", Thủ tướng nhấn mạnh.

Thứ ba là nhóm nhiệm vụ về đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại trên cơ sở huy động mạnh mẽ các nguồn lực, có cơ chế, chính sách để huy động nguồn lực, kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa nguồn lực bên trong và bên ngoài (trong đó nguồn lực bên trong gồm con người, thiên nhiên, truyền thống lịch sử- văn hóa là cơ bản, lâu dài, chiến lược, quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, thường xuyên), giữa nguồn lực Nhà nước với các nguồn lực xã hội; đồng thời tiết kiệm, tăng thu, giảm chi, phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.

Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương tập trung phát triển hạ tầng chiến lược theo 3 đột phá chiến lược đã được xác định, nhất là hạ tầng giao thông, từ đó tạo không gian phát triển mới, các khu đô thị, dịch vụ mới, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân.

"Chúng ta đã có Luật Hợp tác công tư nhưng công cụ huy động hợp tác công tư còn yếu. Hiện vẫn còn nhiều vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách cần xử lý nhưng với cơ chế đang có thì các địa phương vẫn có thể làm được nếu lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung suy nghĩ, vận dụng tối đa các quy định hiện có trên tinh thần dám nghĩ, dám làm", Thủ tướng chia sẻ.

Thứ tư là nhóm thực hiện song song các nhiệm vụ, đề án theo chuyên ngành riêng. Vì phát triển đô thị không phải là nhiệm vụ của riêng ngành xây dựng, đô thị là không gian chung dành cho tất cả mọi người và là mắt xích quan trọng kết nối các ngành, lĩnh vực khác nhau. Các ngành cần rà soát các nhiệm vụ có liên quan để ưu tiên tổ chức thực hiện song song, thiết thực tạo hiệu ứng cộng hưởng, phối hợp chung, thống nhất, hình thành sức mạnh tổng hợp trong phát triển đô thị vì lợi ích chung và mục tiêu chung.

Thứ năm là nhóm nhiệm vụ về xây dựng thể chế, cơ chế chính sách, văn bản pháp luật, phát hiện các vướng mắc và phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả, nếu cần thiết thì làm thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội, nhất là trong việc xử lý những điểm nghẽn trong phát triển đô thị. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền đô thị.

Phê duyệt quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Phê duyệt quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 8/11/2022 phê duyệt quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

P.V

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 118,000
AVPL/SJC HCM 116,000 118,000
AVPL/SJC ĐN 116,000 118,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 11,610
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 11,600
Cập nhật: 22/04/2025 05:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 116.900
TPHCM - SJC 116.000 118.000
Hà Nội - PNJ 113.500 116.900
Hà Nội - SJC 116.000 118.000
Đà Nẵng - PNJ 113.500 116.900
Đà Nẵng - SJC 116.000 118.000
Miền Tây - PNJ 113.500 116.900
Miền Tây - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 115.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 115.170
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 114.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 87.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 68.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 48.410
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 106.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 70.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 75.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 79.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 43.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 38.430
Cập nhật: 22/04/2025 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 11,790
Trang sức 99.9 11,210 11,780
NL 99.99 11,220
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 11,800
Miếng SJC Thái Bình 11,600 11,800
Miếng SJC Nghệ An 11,600 11,800
Miếng SJC Hà Nội 11,600 11,800
Cập nhật: 22/04/2025 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16114 16381 16967
CAD 18223 18499 19124
CHF 31491 31871 32527
CNY 0 3358 3600
EUR 29270 29540 30573
GBP 33889 34278 35229
HKD 0 3203 3405
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15258 15851
SGD 19331 19611 20141
THB 697 760 814
USD (1,2) 25615 0 0
USD (5,10,20) 25653 0 0
USD (50,100) 25681 25715 26060
Cập nhật: 22/04/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,700 25,700 26,060
USD(1-2-5) 24,672 - -
USD(10-20) 24,672 - -
GBP 34,226 34,318 35,228
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 31,600 31,698 32,587
JPY 180.2 180.52 188.59
THB 745.03 754.23 807.01
AUD 16,392 16,451 16,902
CAD 18,498 18,557 19,056
SGD 19,531 19,592 20,212
SEK - 2,674 2,768
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,445 2,531
CNY - 3,513 3,609
RUB - - -
NZD 15,214 15,356 15,808
KRW 16.96 - 19
EUR 29,403 29,427 30,686
TWD 720.96 - 872.84
MYR 5,536.18 - 6,245.4
SAR - 6,781.86 7,138.75
KWD - 82,281 87,521
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,720 26,060
EUR 29,244 29,361 30,452
GBP 34,008 34,145 35,117
HKD 3,270 3,283 3,390
CHF 31,496 31,622 32,544
JPY 179.63 180.35 187.93
AUD 16,241 16,306 16,835
SGD 19,514 19,592 20,127
THB 760 763 797
CAD 18,425 18,499 19,017
NZD 15,221 15,730
KRW 17.46 19.26
Cập nhật: 22/04/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25700 25700 26060
AUD 16273 16373 16935
CAD 18402 18502 19060
CHF 31717 31747 32621
CNY 0 3515.9 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29423 29523 30401
GBP 34169 34219 35340
HKD 0 3330 0
JPY 180.91 181.41 187.94
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15344 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19477 19607 20339
THB 0 726.6 0
TWD 0 790 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 11200000 11200000 11800000
Cập nhật: 22/04/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,695 25,745 26,120
USD20 25,695 25,745 26,120
USD1 25,695 25,745 26,120
AUD 16,331 16,481 17,543
EUR 29,592 29,742 30,915
CAD 18,350 18,450 19,770
SGD 19,566 19,716 20,179
JPY 180.96 182.46 187.08
GBP 34,280 34,430 35,315
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,400 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 05:00