Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 5) Những thách thức mang tính cấu trúc

11:00 | 01/09/2021

394 lượt xem
|
Khủng hoảng kéo dài đã chỉ ra thêm những thách thức mang tính cấu trúc trong nước, đòi hỏi các chính sách ứng phó của Chính phủ.
fd
Chính phủ có thể cần phải mở rộng gói hỗ trợ tài khóa, đến nay vẫn ở mức khiêm tốn, để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp.

Nhóm phân tích của WB cho rằng, viễn cảnh kinh tế trong ngắn và trung hạn của Việt Nam phụ thuộc vào một số yếu tố: tốc độ tiêm vắc-xin trong nước; diễn biến của đại dịch và quá trình phục hồi hoạt động kinh tế ở các quốc gia cạnh tranh xuất khẩu với Việt Nam; và tăng trưởng yếu hơn so với kỳ vọng ở những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có thể làm chậm quá trình phục hồi.

Quá trình phục hồi tại Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và Trung Quốc đang diễn ra nhưng còn mong manh. Nếu một hoặc nhiều rủi ro nêu trên trở thành hiện thực, thì nhu cầu trong nước và xuất khẩu sẽ không hồi phục lại như dự kiến. Nền kinh tế vẫn có thể tăng trưởng ở mức 3,2% trong năm 2021 và 5,5% trong năm 2022 (kịch bản xấu). Lạm phát vẫn ở mức thấp nhưng cân đối tài khóa và cán cân khu vực kinh tế đối ngoại sẽ không cải thiện như dự báo trong kịch bản cơ sở từ năm 2021 trở đi.

"Khủng hoảng kéo dài đã chỉ ra thêm những thách thức mang tính cấu trúc trong nước, đòi hỏi các chính sách ứng phó của Chính phủ" - báo cáo WB chỉ rõ.

Thứ nhất, xử lý hệ quả xã hội của khủng hoảng. Tác động của COVID-19 đến thị trường lao động và các hộ gia đình tiếp tục diễn ra trong năm 2021, và càng trở nên trầm trọng sau đợt dịch bùng phát vào tháng 2 và tháng 4. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chưa khôi phục hoàn toàn về mức trước COVID-19 và thu nhập của hộ gia đình đã bị ảnh hưởng, với mức độ khác nhau giữa các ngành nghề, giới và địa bàn. Những tác động đó đặc biệt liên quan đến nữ giới, là những người bị thiệt thòi hơn do những điều chỉnh gần đây trên thị trường lao động.

Đồng thời, những người làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức và những địa bàn mà hoạt động kinh tế phụ thuộc vào du lịch và doanh nghiệp quốc tế cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn. Tác động khác biệt như vậy có thể dẫn đến sự gia tăng kéo dài của bất bình đẳng. Thu nhập hộ gia đình bị giảm sẽ ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng và đầu tư, và qua đó ảnh hưởng đến quá trình phục hồi kinh tế. Thu nhập thấp cũng có thể tác động đến các khoản đầu tư cho sức khỏe và giáo dục của trẻ em, gây ảnh hưởng lâu dài đến tích lũy vốn con người của đất nước. Các cấp có thẩm quyền cần cân nhắc tăng cường phạm vi bao phủ, xác định đối tượng mục tiêu và mức hỗ trợ trong các chương trình đảm bảo xã hội để đảm bảo rằng những nạn nhân hiện tại và tương lai của các cú sốc tự nhiên hay kinh tế nhận được hỗ trợ đầy đủ.

Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đầu tư công cũng có thể góp phần tăng chi tiêu công.
Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đầu tư công cũng có thể góp phần tăng chi tiêu công.

Thứ hai, cảnh giác với rủi ro khu vực tài chính đang tăng lên do khủng hoảng. Trong bối cảnh những đợt dịch gần đây, đặc biệt là đợt bùng phát trên diện rộng bắt đầu từ tháng 5, đã khiến nhiều doanh nghiệp ở các thành phố lớn và một số khu công nghiệp phải đóng cửa phòng dịch, cơ quan phụ trách chính sách tiền tệ cần thận trọng với những rủi ro đang gia tăng về nợ xấu. Họ cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ sự ổn định của hệ thống ngân hàng, hiện vẫn còn có một số ngân hàng chưa đảm bảo an toàn vốn.

Một hệ thống cảnh báo sớm cần được xây dựng để xác định những nguy cơ tiềm năng ở từng ngân hàng và cả hệ thống. Các cấp có thẩm quyền cần xây dựng chiến lược chấm dứt các biện pháp cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ rõ ràng. Việc triển khai thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ có thể che lấp một phần mức độ dễ bị tổn thương của bên vay và các ngân hàng, vì vậy cần được theo dõi chặt chẽ. Điều cần làm nữa là sớm ban hành kế hoạch xử lý nợ xấu, không cho phép gánh nặng nợ xấu kéo dài trong hệ thống ngân hàng vì nó có thể hạn chế vai trò hỗ trợ tăng trưởng bao trùm của hệ thống ngân hàng.

Thêm vào đó, cũng cần có cơ chế rõ ràng để xử lý những ngân hàng yếu kém và đang gặp khó khăn, đồng thời tiếp tục tái cơ cấu vốn các ngân hàng để đáp ứng các yêu cầu của chuẩn Basel II.

Thứ ba, cảnh giác với rủi ro tài khóa. Theo kịch bản cơ sở, bội chi ngân sách dự kiến tăng từ 4,9% GDP năm 2020 lên 6% năm 2021, dẫn đến nợ công tăng khoảng 3,0% GDP. Mặc dù Chính phủ vẫn còn đủ dư địa tài khóa, với tỷ lệ nợ công trên GDP xoay quanh 55,3% GDP vào cuối năm 2020, nhưng kinh nghiệm quốc tế cho thấy tình hình tài khóa có thể xấu đi tương đối nhanh chóng nếu đợt dịch hiện nay không được kiểm soát nhanh chóng và/hoặc những đợt dịch mới lại bùng lên trong những tháng tiếp theo.

Chính sách tài khóa có thể là công cụ chính duy nhất trong tay các cơ quan chức năng để ứng phó với đại dịch. Chính phủ có thể cần phải mở rộng gói hỗ trợ tài khóa, đến nay vẫn ở mức khiêm tốn, để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, qua đó tránh được những căng thẳng xã hội có thể xảy ra.

Một số ngành nghề đang gặp khó khăn tài chính, chẳng hạn ngành du lịch và hàng không, đến nay chủ yếu được hỗ trợ bằng chính sách tiền tệ thích ứng, nhưng có thể cũng cần can thiệp trực tiếp từ nhà nước nếu tình hình không cải thiện. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đầu tư công cũng có thể góp phần tăng chi tiêu công. Thu thuế có thể sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do các hoạt động kinh tế chững lại. Tại thời điểm hiện tại, rủi ro tài khóa có vẻ vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng vẫn cần được tiếp tục theo dõi chặt chẽ.

Kỳ 6: Tìm hiệu suất cao hơn trong dài hạn

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 4) Viễn cảnh trước mắt và trong trung hạnTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 4) Viễn cảnh trước mắt và trong trung hạn
Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 3) Cán cân thương mại chuyển sang thâm hụtTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 3) Cán cân thương mại chuyển sang thâm hụt
Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 2) Khó khăn “đè” doanh nghiệp và người dânTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 2) Khó khăn “đè” doanh nghiệp và người dân
Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 1) Sức ép mục tiêu tăng trưởngTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 1) Sức ép mục tiêu tăng trưởng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,000 151,000
Hà Nội - PNJ 148,000 151,000
Đà Nẵng - PNJ 148,000 151,000
Miền Tây - PNJ 148,000 151,000
Tây Nguyên - PNJ 148,000 151,000
Đông Nam Bộ - PNJ 148,000 151,000
Cập nhật: 20/10/2025 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,000 ▲300K 15,100
Miếng SJC Nghệ An 15,000 ▲310K 15,100 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 15,000 ▲300K 15,100 ▲15100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,000 ▲300K 15,100 ▲15100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,000 ▲200K 15,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,000 ▲200K 15,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,900 ▲100K ▼15100K
NL 99.99 14,900 ▼50K ▼15100K
Trang sức 99.9 14,890 ▼60K 15,090 ▼10K
Trang sức 99.99 14,900 ▼50K 15,100
Cập nhật: 20/10/2025 14:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 150 ▼1345K 15,102
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 150 ▼1345K 15,103
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,502
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,462 ▲5K 1,492 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 143,223 ▲495K 147,723 ▲495K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,561 ▲375K 112,061 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 94,116 ▲340K 101,616 ▲340K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,671 ▲305K 91,171 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,642 ▲291K 87,142 ▲291K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,873 ▲209K 62,373 ▲209K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 150 ▼1345K 151
Cập nhật: 20/10/2025 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16588 16857 17427
CAD 18252 18528 19141
CHF 32548 32932 33576
CNY 0 3470 3830
EUR 30092 30365 31387
GBP 34562 34954 35884
HKD 0 3261 3463
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14789 15375
SGD 19810 20092 20616
THB 719 782 835
USD (1,2) 26079 0 0
USD (5,10,20) 26120 0 0
USD (50,100) 26148 26168 26356
Cập nhật: 20/10/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,146 26,146 26,356
USD(1-2-5) 25,101 - -
USD(10-20) 25,101 - -
EUR 30,334 30,358 31,498
JPY 171.23 171.54 178.63
GBP 35,000 35,095 35,908
AUD 16,911 16,972 17,409
CAD 18,510 18,569 19,090
CHF 32,901 33,003 33,678
SGD 19,969 20,031 20,650
CNY - 3,650 3,746
HKD 3,341 3,351 3,433
KRW 17.16 17.9 19.21
THB 768.57 778.06 827.58
NZD 14,836 14,974 15,319
SEK - 2,758 2,837
DKK - 4,058 4,173
NOK - 2,584 2,658
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,845.02 - 6,553.47
TWD 778.09 - 936.48
SAR - 6,927.13 7,248.48
KWD - 84,043 88,866
Cập nhật: 20/10/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,133 30,254 31,337
GBP 34,764 34,904 35,842
HKD 3,325 3,338 3,441
CHF 32,622 32,753 33,642
JPY 170.67 171.36 178.22
AUD 16,809 16,877 17,399
SGD 19,994 20,074 20,589
THB 782 785 818
CAD 18,462 18,536 19,045
NZD 14,875 15,352
KRW 17.79 19.45
Cập nhật: 20/10/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26356
AUD 16784 16884 17495
CAD 18444 18544 19146
CHF 32816 32846 33733
CNY 0 3663.3 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30291 30321 31346
GBP 34893 34943 36054
HKD 0 3390 0
JPY 171.39 171.89 178.9
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.161 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14916 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19971 20101 20833
THB 0 748.7 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 15000000 15000000 15150000
SBJ 13500000 13500000 15150000
Cập nhật: 20/10/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,135 26,185 26,356
USD20 26,135 26,185 26,356
USD1 23,846 26,185 26,356
AUD 16,827 16,927 18,065
EUR 30,377 30,377 31,743
CAD 18,373 18,473 19,814
SGD 20,008 20,158 21,101
JPY 170.96 172.46 177.31
GBP 34,928 35,078 35,908
XAU 15,148,000 0 15,302,000
CNY 0 3,531 0
THB 0 783 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/10/2025 14:00