Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

15:00 | 08/09/2022

390 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong bối cảnh nhiều quốc gia tìm cách ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và thỏa thuận Net-zero tại Hội nghị Thượng đỉnh khí hậu COP26, việc sử dụng năng lượng tái tạo nhằm thay thế năng lượng hóa thạch dần trở thành xu thế tất yếu trên toàn cầu.
Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo
Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Điện gió lan tỏa tới 130 quốc gia

Trong bối cảnh giá năng lượng hóa thạch biến động mạnh do khan hiếm tài nguyên cũng như chiến tranh (khu vực Trung Đông, Nga - Ukraine...), các nước bắt đầu quan tâm hơn đến phát triển điện gió. Đây được xem là chìa khóa để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy nền kinh tế không carbon. Trong đó, điện gió ngoài khơi là một nguồn năng lượng tái tạo có triển vọng phát triển lớn. Ưu điểm chính của điện gió ngoài khơi là khả năng tạo ra điện cao hơn vì tốc độ gió trên đại dương thường ổn định hơn và mạnh hơn so với trên đất liền. Ngoài ra, một điểm cộng khác là thực tế không giới hạn các địa điểm ngoài khơi để triển khai trang trại điện gió mà ít hoặc không ảnh hưởng đến xung đột dân cư. Hơn nữa, những tiến bộ gần đây trong công nghệ điện gió ngoài khơi giúp giảm chi phí vốn, lắp đặt và vận hành.

Theo số liệu thống kê, hiện đã có 130 nước trên thế giới phát triển điện gió. Tổng công suất điện gió của thế giới tăng nhanh trong khoảng 1 thập niên gần đây, đến năm 2020 lên tới 733 GW, cao gần gấp 2 lần so với năm 2011.

Kể từ năm 2010, hơn một nửa tổng lượng điện gió mới đã được bổ sung bên ngoài các thị trường truyền thống là châu Âu và Bắc Mỹ, chủ yếu do sự bùng nổ điện gió liên tục ở Trung Quốc và Ấn Độ.

Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Năm 2020, tỷ lệ sử dụng điện gió đạt 56% ở Đan Mạch, Uruguay 40%, Lithuania 36%, Ireland 35%, Bồ Đào Nha 23%, Anh 24%, Đức 23%, Tây Ban Nha 20%, Hy Lạp 18%, Thụy Điển 16%, EU 15%, Mỹ 8% và Trung Quốc 6%. Hiện Vương quốc Anh là nước đứng đầu thế giới về phát triển điện gió ngoài khơi, chiếm 40% sản lượng điện gió toàn cầu; Đức đứng thứ hai, chiếm 27%; Đan Mạch chiếm 10,5%; Trung Quốc chiếm 8,4%, Bỉ chiếm 6,0%.

Hiện nay, các trang trại điện gió ngoài khơi chủ yếu phát triển ở các nước Tây Âu, Trung Quốc, châu Mỹ. Tại khu vực Biển Đông, phía Bắc xung quanh eo biển Đài Loan là những nơi có nhiều dự án điện gió được triển khai. Khu vực phía Nam Biển Đông, các dự án điện gió của Việt Nam cũng được phát triển mạnh.

Những nhà tiên phong xuất khẩu điện mặt trời

Cùng với sự gia tăng nhu cầu về năng lượng tái tạo, một số quốc gia đã linh hoạt trở thành những nhà tiên phong xuất khẩu điện mặt trời.

Ở Đông Nam Á, quốc đảo Indonesia đang dẫn đầu cuộc đua điện mặt trời. Những tháng gần đây, 5 dự án xuất khẩu điện mặt trời khổng lồ đã được đề xuất ở Indonesia, trong đó có việc xây dựng một công viên điện mặt trời 3,5 GW và một cơ sở lưu trữ pin 12 GWh trên 4.000 ha đất trên quần đảo Riau của Indonesia. Điện mặt trời được tạo ra sau đó sẽ được xuất khẩu sang Singapore thông qua một tuyến cáp ngầm dưới biển.

Hiện tại, Singapore sản xuất 95% điện năng từ khí đốt nhập khẩu. Năm ngoái, Chính phủ Singapore đã công bố mục tiêu nhập khẩu tới 4 GW điện carbon thấp, tương đương 30% nhu cầu vào năm 2035, do đó, tạo cơ hội xuất khẩu điện mặt trời cho các quốc gia như Indonesia.

Trong khi đó, xứ sở chuột túi Australia cũng có những lợi thế về tự nhiên, bao gồm nhiều đất chưa sử dụng để xây dựng một nhà máy điện mặt trời quy mô 12.000 ha và thời tiết thuận lợi để sản xuất điện mặt trời.

Ở Bắc Phi, Maroc cũng được đánh giá là quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các nguồn năng lượng tái tạo đáng kể. Từ năm 2009, Maroc đã nâng công suất điện mặt trời lên gấp 16 lần và điện gió lên gấp 6 lần vào năm 2020. Mặc dù Maroc đã bỏ lỡ mục tiêu đầy tham vọng là có 42% tổng công suất lắp đặt từ năng lượng tái tạo vào năm 2020 khi chỉ đạt 37%, nhưng tiến độ phát triển năng lượng tái tạo vẫn rất đáng khích lệ. Maroc đã có 2 đường cáp điện nối nước này với Tây Ban Nha.

Trong khi đó, vào tháng 4-2022, Công ty Xlinks của Anh đã công bố kế hoạch xây dựng 1 nhà máy điện mặt trời và điện gió kết hợp 10,5 GW với bộ lưu trữ pin tại chỗ, cũng như 1 cáp ngầm dài 3.800km, có khả năng chuyển tải điện mặt trời và điện gió đến Tây Ban Nha.

Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Thủy triều là nguồn tài nguyên năng lượng vô tận

Kỳ vọng về năng lượng thủy triều

Trong nỗ lực bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài, năng lượng thủy triều được đưa vào bàn tròn các cuộc thảo luận xung quanh vấn đề năng lượng tái tạo.

Tại Vương quốc Anh, một số dự án thủy triều đang được tiến hành trên các khu vực khác nhau. Dự án Morlais trị giá 39 triệu USD trên một hòn đảo ngoài khơi xứ Wales đang được tài trợ bởi Liên minh châu Âu (EU). Các turbine được thiết lập để lắp đặt trên diện tích 13 dặm vuông, khiến khu vực này trở thành một trong những địa điểm cung cấp năng lượng thủy triều lớn nhất thế giới. Dự án thu hút mức đầu tư cao như vậy vì nó cung cấp một giải pháp thay thế đáng tin cậy hơn cho điện mặt trời và điện gió nhờ khả năng dự đoán thủy triều chính xác.

Trong khi đó, tại Canada, các công ty năng lượng đang đề xuất rằng, các công nghệ năng lượng thủy triều mới có thể tốt hơn đáng kể so với phát triển điện mặt trời do hiệu quả và độ tin cậy cao. Công ty năng lượng Idenergie có trụ sở tại Montreal đang giới thiệu một loại turbine thủy triều mới, sẽ không làm gián đoạn sinh vật biển trong khu vực và có thể cung cấp năng lượng liên tục cả ngày lẫn đêm.

Đây là những tín hiệu đáng mừng trong bối cảnh các cường quốc đang ráo riết tìm các giải pháp thay thế lâu dài cho dầu và khí đốt trong tương lai.

Năm 2020, tỷ lệ sử dụng điện gió đạt 56% ở Đan Mạch, Uruguay 40%, Lithuania 36%, Ireland 35%, Bồ Đào Nha 23%, Anh 24%, Đức 23%, Tây Ban Nha 20%, Hy Lạp 18%, Thụy Điển 16%, EU 15%, Mỹ 8% và Trung Quốc 6%. Hiện Vương quốc Anh là nước đứng đầu thế giới về phát triển điện gió ngoài khơi, chiếm 40% sản lượng điện gió toàn cầu; Đức đứng thứ hai, chiếm 27%; Đan Mạch chiếm 10,5%; Trung Quốc chiếm 8,4%, Bỉ chiếm 6,0%.

Hiện nay, các trang trại điện gió ngoài khơi chủ yếu phát triển ở các nước Tây Âu, Trung Quốc, châu Mỹ. Tại khu vực Biển Đông, phía Bắc xung quanh eo biển Đài Loan là những nơi có nhiều dự án điện gió được triển khai. Khu vực phía Nam Biển Đông, các dự án điện gió của Việt Nam cũng được phát triển mạnh.

Minh Quân

Quảng Trị định hướng trở thành trung tâm năng lượng của miền TrungQuảng Trị định hướng trở thành trung tâm năng lượng của miền Trung
Ấn Độ trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của thế giới trong vài thập kỷ tớiẤn Độ trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của thế giới trong vài thập kỷ tới
Tận hưởng kỳ nghỉ “xanh” với những điểm đến hòa cùng thiên nhiênTận hưởng kỳ nghỉ “xanh” với những điểm đến hòa cùng thiên nhiên
10 quốc gia dẫn đầu về năng lượng tái tạo10 quốc gia dẫn đầu về năng lượng tái tạo
Bản tin Năng lượng xanh: BlackRock đầu tư 700 triệu USD cho dự án năng lượng tái tạo và lưu trữ pin của ÚcBản tin Năng lượng xanh: BlackRock đầu tư 700 triệu USD cho dự án năng lượng tái tạo và lưu trữ pin của Úc
Phát triển hệ thống điện theo hướng xanhPhát triển hệ thống điện theo hướng xanh
Mỹ: Nhà đầu tư rót tiền vào các quỹ năng lượng xanhMỹ: Nhà đầu tư rót tiền vào các quỹ năng lượng xanh

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 118,000
AVPL/SJC HCM 116,000 118,000
AVPL/SJC ĐN 116,000 118,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 11,610
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 11,600
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 116.900
TPHCM - SJC 116.000 118.000
Hà Nội - PNJ 113.500 116.900
Hà Nội - SJC 116.000 118.000
Đà Nẵng - PNJ 113.500 116.900
Đà Nẵng - SJC 116.000 118.000
Miền Tây - PNJ 113.500 116.900
Miền Tây - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 115.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 115.170
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 114.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 87.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 68.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 48.410
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 106.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 70.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 75.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 79.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 43.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 38.430
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 11,790
Trang sức 99.9 11,210 11,780
NL 99.99 11,220
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 11,800
Miếng SJC Thái Bình 11,600 11,800
Miếng SJC Nghệ An 11,600 11,800
Miếng SJC Hà Nội 11,600 11,800
Cập nhật: 22/04/2025 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16114 16381 16967
CAD 18223 18499 19124
CHF 31491 31871 32527
CNY 0 3358 3600
EUR 29270 29540 30573
GBP 33889 34278 35229
HKD 0 3203 3405
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15258 15851
SGD 19331 19611 20141
THB 697 760 814
USD (1,2) 25615 0 0
USD (5,10,20) 25653 0 0
USD (50,100) 25681 25715 26060
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,700 25,700 26,060
USD(1-2-5) 24,672 - -
USD(10-20) 24,672 - -
GBP 34,226 34,318 35,228
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 31,600 31,698 32,587
JPY 180.2 180.52 188.59
THB 745.03 754.23 807.01
AUD 16,392 16,451 16,902
CAD 18,498 18,557 19,056
SGD 19,531 19,592 20,212
SEK - 2,674 2,768
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,445 2,531
CNY - 3,513 3,609
RUB - - -
NZD 15,214 15,356 15,808
KRW 16.96 - 19
EUR 29,403 29,427 30,686
TWD 720.96 - 872.84
MYR 5,536.18 - 6,245.4
SAR - 6,781.86 7,138.75
KWD - 82,281 87,521
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,720 26,060
EUR 29,244 29,361 30,452
GBP 34,008 34,145 35,117
HKD 3,270 3,283 3,390
CHF 31,496 31,622 32,544
JPY 179.63 180.35 187.93
AUD 16,241 16,306 16,835
SGD 19,514 19,592 20,127
THB 760 763 797
CAD 18,425 18,499 19,017
NZD 15,221 15,730
KRW 17.46 19.26
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25700 25700 26060
AUD 16273 16373 16935
CAD 18402 18502 19060
CHF 31717 31747 32621
CNY 0 3515.9 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29423 29523 30401
GBP 34169 34219 35340
HKD 0 3330 0
JPY 180.91 181.41 187.94
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15344 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19477 19607 20339
THB 0 726.6 0
TWD 0 790 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 11200000 11200000 11800000
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,695 25,745 26,120
USD20 25,695 25,745 26,120
USD1 25,695 25,745 26,120
AUD 16,331 16,481 17,543
EUR 29,592 29,742 30,915
CAD 18,350 18,450 19,770
SGD 19,566 19,716 20,179
JPY 180.96 182.46 187.08
GBP 34,280 34,430 35,315
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,400 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 01:02