Nhịp đập năng lượng ngày 7/8/2023

20:24 | 07/08/2023

6,153 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ả Rập Xê-út tăng giá bán dầu tới châu Á trong tháng 9; Điện hạt nhân trở lại châu Á; Israel kéo dài thời gian hỗ trợ các dự án sản xuất điện bằng khí biogas… là những tin tức nổi bật về năng lượng ngày 7/8/2023.
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn

Ả Rập Xê-út tăng giá bán dầu tới châu Á trong tháng 9

Ả Rập Xê-út, nước xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu thế giới, vừa thông báo tăng giá dầu thô xuất sang châu Á cho tháng 9. Quyết định này được đưa ra sau khi nước này gia hạn cắt giảm sản lượng tự nguyện thêm một tháng. Gã khổng lồ dầu mỏ nhà nước Aramco tiết lộ rằng giá bán chính thức cho dầu thô Arab Light tháng 9 sang châu Á đã tăng 30 cent/thùng so với tháng 8, đạt mức 3,5 USD/thùng so với mức trung bình của Oman/Dubai.

Ngoài ra, OSP đến châu Âu cũng đã tăng 2 USD một thùng, hiện ở mức 5,8 USD cho tháng 9 so với chuẩn dầu Brent. Tuy nhiên, OSP đến Bắc Mỹ vẫn không thay đổi ở mức 7,25 USD so với ASCI.

Ả Rập Xê-út ban đầu tuyên bố cắt giảm sản lượng dầu tự nguyện 1 triệu thùng mỗi ngày, hiện đã được gia hạn để bao gồm cả tháng 9. Việc cắt giảm này tương đương với sản lượng 9 triệu thùng mỗi ngày cho tháng 9. Riyadh đã tuyên bố rằng họ có thể xem xét gia hạn thêm hoặc cắt giảm sâu hơn sản lượng sau tháng 9.

Điện hạt nhân trở lại châu Á

Vào tháng vừa qua, một tuyên bố của Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) về chuyển đổi năng lượng đã nêu bật vai trò khả quan của năng lượng hạt nhân trong việc cắt giảm khí thải, bảo đảm an ninh năng lượng. Các chuyên gia khí hậu nhận định động thái này cho thấy khả năng điện hạt nhân trỗi dậy trên thế giới.

Riêng tại châu Á, theo tờ South China Morning Post ngày 6/8, nguồn năng lượng carbon thấp này đang trở lại với sự đi đầu của Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản. Theo dữ liệu của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), tính đến năm 2020, Trung Quốc chiếm hơn 50% sản lượng điện hạt nhân của châu Á - Thái Bình Dương, theo sau là Hàn Quốc (25%), Ấn Độ và Nhật Bản (mỗi nước 6%). Các nhà máy mới cũng xuất hiện ngày càng nhiều ở khu vực này. Trung Quốc hiện dẫn đầu với 23 lò phản ứng dự kiến sẽ hoàn thành trong 7 năm tới, trong khi Ấn Độ đang xây 8 lò.

Năng lượng hạt nhân được dự báo cũng phát triển ở châu Á trong những thập niên tới. Đáng chú ý, khí thải từ công nghệ điện hạt nhân chỉ tương đương với gió và bằng 1/3 so với năng lượng mặt trời. Dù vậy, hiện vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau về việc sử dụng năng lượng hạt nhân tại khu vực này, như chi phí đắt, thời gian xây dựng nhà máy lâu và việc xử lý an toàn chất thải phóng xạ.

Israel kéo dài thời gian hỗ trợ các dự án sản xuất điện bằng khí biogas

Nhằm khuyến khích hơn nữa hoạt động sản xuất điện từ khí sinh học (biogas), Cơ quan quản lý điện lực Israel (IEA) vừa quyết định kéo dài thêm 3 năm thời hạn hoạt động và thời gian được hưởng các ưu đãi thuế cho các cơ sở phát điện dạng này.

Năm 2011, Israel đã ban hành quy định bao gồm nhiều loại hình ưu đãi khác nhau khuyến khích xây dựng và vận hành các nhà máy điện sử dụng biogas, thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp. IEA cho biết, việc gia hạn thời gian ưu đãi chủ yếu dành cho các dự án phát điện có diện tích khoảng 100 m2, như vậy có thể tạo ra tổng công suất ước tính trên 100 MW trên cả nước.

Chủ tịch IEA Amir Shavit nói: "Quyết định của IEA sẽ hỗ trợ đáng kể thị trường biogas ở Israel và sẽ tạo ra khoảng 100 MW điện từ việc tái chế chất thải hữu cơ. Với tư cách là cơ quan có thẩm quyền, IEA tin tưởng và ủng hộ các dự án này, đồng thời quan tâm tới các kiến nghị về việc đẩy nhanh các thủ tục và giải quyết vướng mắc mà các doanh nghiệp trong lĩnh vực này gặp phải”.

Hungary chưa thể thay thế khí đốt Nga

Nhằm phản bác tuyên bố của phe đối lập rằng thỏa thuận của Hungary với Gazprom của Nga là vô ích và tốn kém, Bộ trưởng Ngoại giao Tamas Menzer cho biết: “Trong tổng khối lượng khí đốt tiêu thụ hàng năm ở Hungary, 85% là khí đốt của Nga. Lượng khí đốt này không thể được bổ sung trong tương lai gần. Tức là không có khí đốt của Nga, Hungary sẽ bị đóng băng, các căn hộ sẽ không có hệ thống sưởi, ngành công nghiệp sẽ ngừng hoạt động, việc làm sẽ bị mất".

Ông Menzer nhấn mạnh thêm rằng "khí đốt của Nga đảm bảo nguồn cung và an ninh năng lượng" cho Hungary nên hiện chưa thể thay thế. Theo người đứng đầu ngành ngoại giao Hungary, giá khí đốt cao là do "chính sách trừng phạt có hại của Liên minh châu Âu (EU), đẩy các nguồn năng lượng của Nga ra khỏi châu Âu".

Ông Mentzer cũng nhắc lại rằng Hungary đang nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng, ngoài Gazprom, hợp đồng dài hạn đã được ký với Shell, thỏa thuận về việc cung cấp khí đốt từ Azerbaijan và khả năng mua khí đốt từ Qatar, Thổ Nhĩ Kỳ và Romania đang được xem xét.

Nhịp đập năng lượng ngày 5/8/2023Nhịp đập năng lượng ngày 5/8/2023
Nhịp đập năng lượng ngày 6/8/2023Nhịp đập năng lượng ngày 6/8/2023

H.T (t/h)

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,200 118,700
AVPL/SJC HCM 116,200 118,700
AVPL/SJC ĐN 116,200 118,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,750 11,150
Nguyên liệu 999 - HN 10,740 11,140
Cập nhật: 29/05/2025 06:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.300 114.400
TPHCM - SJC 116.200 118.700
Hà Nội - PNJ 111.300 114.400
Hà Nội - SJC 116.200 118.700
Đà Nẵng - PNJ 111.300 114.400
Đà Nẵng - SJC 116.200 118.700
Miền Tây - PNJ 111.300 114.400
Miền Tây - SJC 116.200 118.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.300 114.400
Giá vàng nữ trang - SJC 116.200 118.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.300
Giá vàng nữ trang - SJC 116.200 118.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.300
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.300 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.300 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 113.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 113.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 112.990
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 112.760
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 85.500
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 66.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 47.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 104.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 69.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 74.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 77.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 42.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 37.700
Cập nhật: 29/05/2025 06:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,940 11,390
Trang sức 99.9 10,930 11,380
NL 99.99 10,700
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,150 11,450
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,150 11,450
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,150 11,450
Miếng SJC Thái Bình 11,620 11,870
Miếng SJC Nghệ An 11,620 11,870
Miếng SJC Hà Nội 11,620 11,870
Cập nhật: 29/05/2025 06:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16209 16476 17057
CAD 18265 18541 19157
CHF 30751 31128 31766
CNY 0 3530 3670
EUR 28802 29070 30101
GBP 34292 34683 35616
HKD 0 3182 3384
JPY 173 177 183
KRW 0 17 19
NZD 0 15201 15794
SGD 19626 19907 20427
THB 712 775 828
USD (1,2) 25704 0 0
USD (5,10,20) 25743 0 0
USD (50,100) 25771 25805 26150
Cập nhật: 29/05/2025 06:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,786 25,786 26,146
USD(1-2-5) 24,755 - -
USD(10-20) 24,755 - -
GBP 34,584 34,677 35,610
HKD 3,254 3,264 3,363
CHF 30,916 31,012 31,876
JPY 176.46 176.78 184.66
THB 757.58 766.94 821.33
AUD 16,495 16,555 17,005
CAD 18,529 18,589 19,087
SGD 19,809 19,871 20,499
SEK - 2,656 2,748
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,875 4,009
NOK - 2,513 2,601
CNY - 3,573 3,669
RUB - - -
NZD 15,156 15,297 15,739
KRW 17.56 - 19.67
EUR 28,934 28,957 30,203
TWD 784.05 - 948.62
MYR 5,733.04 - 6,468.96
SAR - 6,806.19 7,164.02
KWD - 82,352 87,564
XAU - - -
Cập nhật: 29/05/2025 06:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,754 28,869 29,976
GBP 34,336 34,474 35,451
HKD 3,244 3,257 3,362
CHF 30,770 30,894 31,789
JPY 175.48 176.18 183.44
AUD 16,356 16,422 16,952
SGD 19,762 19,841 20,386
THB 771 774 808
CAD 18,421 18,495 19,012
NZD 15,198 15,706
KRW 17.99 19.80
Cập nhật: 29/05/2025 06:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25770 25770 26150
AUD 16380 16480 17045
CAD 18430 18530 19084
CHF 31003 31033 31906
CNY 0 3575.6 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29077 29177 29952
GBP 34580 34630 35741
HKD 0 3270 0
JPY 176.58 177.58 184.1
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15301 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19778 19908 20641
THB 0 740.6 0
TWD 0 850 0
XAU 11650000 11650000 11870000
XBJ 10500000 10500000 11870000
Cập nhật: 29/05/2025 06:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,130
USD20 25,780 25,830 26,130
USD1 25,780 25,830 26,130
AUD 16,399 16,549 17,617
EUR 29,075 29,225 30,401
CAD 18,368 18,468 19,786
SGD 19,835 19,985 20,463
JPY 176.9 178.4 183.05
GBP 34,607 34,757 35,552
XAU 11,578,000 0 11,832,000
CNY 0 3,458 0
THB 0 774 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/05/2025 06:45