Ngân hàng báo lãi đậm nhờ đâu?

07:26 | 06/07/2021

352 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ghi nhận mức tăng trưởng tín dụng cao trong khi duy trì chi phí huy động vốn thấp, nhiều ngân hàng cải thiện biên lãi ròng, tăng lợi nhuận. Song tín dụng có phải là tất cả?

Nửa cuối tháng 7 mới là thời điểm các doanh nghiệp niêm yết công bố chính thức kết quả kinh doanh quý II nhưng nhiều ngân hàng đã hé lộ con số lãi khả quan.

Tăng trưởng trên 50%

VietinBank ước tính đạt lợi nhuận trước thuế 13.000 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm nay, theo chia sẻ của ban lãnh đạo tại hội nghị sơ kết hoạt động kinh doanh ngày 30/6. So với cùng kỳ năm trước, lợi nhuận bán niên của ngân hàng quốc doanh này tăng khoảng 74%.

Quý đầu năm, ngân hàng báo lãi 8.061 tỷ đồng, tăng 171% so với quý I/2020. Như vậy, lợi nhuận quý II của nhà băng này ước đạt hơn 4.900 tỷ đồng, tăng 10%. So với chỉ tiêu lợi nhuận 16.800 tỷ đồng của cả năm, ngân hàng hoàn thành hơn 3/4 kế hoạch dù mới đi qua 1/2 chặng đường.

Chia sẻ về kết quả kinh doanh 6 tháng, một nguồn tin từ VietinBank cho biết ngân hàng chuyển đổi cơ cấu theo hướng tăng thu ngoài lãi, thu từ hoạt động dịch vụ mà vẫn đáp ứng được mục tiêu kép vừa tăng trưởng vừa hỗ trợ doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, duy trì mặt bằng lãi suất thấp, nhiều loại phí dịch vụ được cắt giảm... Kết quả trên của ngân hàng không chỉ đến từ cho vay. Nếu như trước đây, thu ngoài lãi chỉ chiếm hơn 10% thì nay tỷ lệ này đã tăng lên 25-26%, thu từ hoạt động dịch vụ cũng chiếm đến 15-16%.

Một ngân hàng nằm trong nhóm dẫn đầu về lợi nhuận là Techcombank cũng được dự báo tiếp tục tăng trưởng mạnh trong quý II. Nhóm phân tích của Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) kỳ vọng lãi trước thuế quý II của ngân hàng này đạt 5.671 tỷ đồng, tăng 57% so với cùng kỳ năm trước.

Nếu con số ước tính của VDSC chính xác, lợi nhuận trước thuế bán niên 2021 của Techcombank ước đạt 11.189 tỷ đồng, hoàn thành 57% kế hoạch năm. So với nửa đầu năm 2020, ngân hàng tư nhân này tăng trưởng lợi nhuận thêm 66%.

Một ngân hàng tư nhân nằm ở nhóm giữa về tổng tài sản, lợi nhuận là TPBank cũng vừa công bố lợi nhuận trước thuế 6 tháng đạt 3.007 tỷ đồng, tăng 48% so với cùng kỳ 2020. Lợi nhuận riêng trong 3 tháng gần nhất là 1.585 tỷ đồng, tăng 55% so với quý II/2020.

Nếu tính theo kỳ kế toán bán niên, đây là mức lãi kỷ lục trong 6 tháng đầu năm của nhà băng này. Ngân hàng cũng đang đi đúng tiến độ khi hoàn thành 52% chỉ tiêu lợi nhuận cả năm 2021 sau một nửa thời gian.

Ngân hàng báo lãi đậm nhờ đâu? - 1
Biểu đồ: Việt Đức.

Tín dụng tăng cao khi chi phí huy động vốn thấp

Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng do Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam (YSVN) công bố cuối tháng 6 dự báo lợi nhuận của nhiều nhà băng trong quý II tiếp tục tăng trưởng tốt nhờ biên lãi ròng (NIM) được cải thiện. NIM của nhiều ngân hàng tăng khi tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn nhiều so với cùng kỳ còn chi phí huy động vốn vẫn ở mức thấp do mặt bằng lãi suất thấp được duy trì.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, sau 6 tháng đầu năm, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 3,1% trong khi tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,5%. Cùng kỳ năm 2020, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 2,5%.

Trong báo cáo phân tích gần đây, VDSC cho hay đã có 10 ngân hàng đề xuất Ngân hàng Nhà nước nâng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng sau nửa đầu năm. Tuy nhiên, cơ quan quản lý đang cân nhắc đề xuất này nhằm đảm bảo chất lượng tăng trưởng tín dụng.

Trao đổi với Dân trí, ông Tánh Trần, chuyên gia phân tích của YSVN, cho biết việc tăng trưởng huy động thấp hơn nhiều so với mức tăng tín dụng, thanh khoản của nhiều ngân hàng có dấu hiệu thu hẹp lại, không còn quá dư thừa nhưng chưa đến mức căng thẳng.

Thanh khoản hệ thống ngân hàng giảm nhẹ có thể đẩy lãi suất tăng nhưng YSVN dự báo Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ ít nhất đến cuối năm 2021. Đây là điều kiện giúp các nhà băng tiếp tục giảm chi phí huy động vốn.

Ngoài ra, thu nhập từ phí, đặc biệt là doanh thu bán bảo hiểm (bancassurance) tăng hỗ trợ đà tăng lợi nhuận của các ngân hàng. Riêng một số ngân hàng ký kết hợp đồng bancassurance độc quyền từ năm 2020 như Vietcombank, ACB, MSB, VietinBank còn tiếp tục hạch toán một phần khoản phí trả trước từ các hãng bảo hiểm trong quý II.

"Việc lợi nhuận tăng mạnh còn một phần nguyên nhân do nền so sánh thấp của năm 2020. Lợi nhuận các quý đầu năm 2020 của nhiều ngân hàng thấp nên mức tăng trưởng so với cùng kỳ cao không quá ngạc nhiên. Nhưng đây vẫn là dấu hiệu tích cực với ngành ngân hàng", ông Tánh nhận định.

Tuy nhiên, chuyên gia này nhấn mạnh nợ xấu ngân hàng vẫn giữ ở mức ổn định, chưa có dấu hiệu đột biến nhưng có thể gia tăng trong tương lai. Tác động tiêu cực của dịch bệnh sẽ xuất hiện với doanh nghiệp đầu tiên rồi mới đến ngân hàng. Ngoài ra, một yếu tố thuận lợi với các tổ chức tín dụng là Thông tư 03 của Ngân hàng Nhà nước cho phép việc trích lập dự phòng các khoản nợ tái cơ cấu chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 trong thời gian lên tới 3 năm.

"Trong giai đoạn bình thường, tỷ lệ trích lập dự phòng nợ xấu (LLR) cao có thể không quá quan trọng nhưng ở những thời điểm nhạy cảm như hiện tại, những ngân hàng có tỷ lệ LLR cao sẽ an toàn hơn. Việc tăng dự phòng để hạn chế tác động khi nợ xấu gia tăng trong tương lai là chính sách thận trọng cần thiết", chuyên gia của YSVN kết luận.

Lãnh đạo một ngân hàng tại Hà Nội cho biết không phải tất cả ngân hàng đều có kết quả tốt. Nếu đánh giá toàn diện thì sẽ có những ngân hàng nổi trội về kết quả kinh doanh nhưng vẫn có những bên yếu kém cần phải xử lý nhiều vấn đề. Trong đại dịch, ngân hàng nơi ông làm việc phải cấu trúc, điều chỉnh lại, xoay chuyển theo mô hình tăng trưởng mạnh mẽ, cách làm thay đổi nhất định.

"Trong cái khó lại có những tích cực để tìm cách làm mới ngoài thu từ cho vay. Cơ cấu thay đổi nhiều theo hướng tăng thu ngoài tín dụng, tăng thu dịch vụ", vị này chia sẻ.

Dù thế, theo lãnh đạo này, so với đợt dịch của năm 2020, năm nay "rất đáng quan tâm" khi đợt dịch thứ 4 bùng phát. Theo góc nhìn của ông, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng doanh thu, quy mô cũng giảm. Ngay cả những doanh nghiệp có nguồn dự trữ đã bỏ ra đến lúc này cũng sẽ đối mặt khó khăn hơn. Đó là những vấn đề cần dự báo.

Theo Dân trí

Lãi suất ngân hàng - Những quan điểm trái chiềuLãi suất ngân hàng - Những quan điểm trái chiều
Chân dung các Bí thư Tỉnh ủy xuất thân từ ngành ngân hàngChân dung các Bí thư Tỉnh ủy xuất thân từ ngành ngân hàng
Tiền tạm thời nhàn rỗi của Quỹ vắc xin gửi ở 4 ngân hàng lớnTiền tạm thời nhàn rỗi của Quỹ vắc xin gửi ở 4 ngân hàng lớn
Nghiên cứu, thí điểm tiền ảo dựa trên công nghệ BlockchainNghiên cứu, thí điểm tiền ảo dựa trên công nghệ Blockchain
Bộ trưởng Y tế đề nghị WB hỗ trợ nghiên cứu, sản xuất vaccineBộ trưởng Y tế đề nghị WB hỗ trợ nghiên cứu, sản xuất vaccine

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC HCM 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC ĐN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,670 ▲340K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,660 ▲340K 11,809 ▲209K
Cập nhật: 22/04/2025 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 120.500 ▲4500K 122.500 ▲4500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,620 ▲400K 12,140 ▲350K
Trang sức 99.9 11,610 ▲400K 12,130 ▲350K
NL 99.99 11,620 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,620 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
Miếng SJC Thái Bình 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Nghệ An 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Hà Nội 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Cập nhật: 22/04/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16136 16403 16985
CAD 18240 18516 19136
CHF 31412 31791 32439
CNY 0 3358 3600
EUR 29259 29529 30556
GBP 33945 34334 35278
HKD 0 3209 3411
JPY 178 182 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15296 15890
SGD 19317 19596 20113
THB 697 760 813
USD (1,2) 25648 0 0
USD (5,10,20) 25686 0 0
USD (50,100) 25714 25748 26090
Cập nhật: 22/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,730 25,730 26,090
USD(1-2-5) 24,701 - -
USD(10-20) 24,701 - -
GBP 34,238 34,330 35,250
HKD 3,280 3,290 3,389
CHF 31,508 31,606 32,487
JPY 180.55 180.87 188.98
THB 746.12 755.34 808.18
AUD 16,401 16,460 16,911
CAD 18,487 18,547 19,050
SGD 19,513 19,574 20,184
SEK - 2,672 2,767
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,928 4,063
NOK - 2,452 2,549
CNY - 3,506 3,602
RUB - - -
NZD 15,217 15,358 15,805
KRW 16.89 17.61 18.91
EUR 29,371 29,395 30,649
TWD 720.18 - 871.18
MYR 5,528.73 - 6,236.88
SAR - 6,789.96 7,147.15
KWD - 82,382 87,599
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,710 25,730 26,070
EUR 29,308 29,426 30,519
GBP 34,090 34,227 35,201
HKD 3,272 3,285 3,392
CHF 31,441 31,567 32,486
JPY 180.18 180.90 188.52
AUD 16,314 16,380 16,909
SGD 19,515 19,593 20,127
THB 761 764 798
CAD 18,411 18,485 19,002
NZD 15,317 15,827
KRW 17.40 19.19
Cập nhật: 22/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25720 25720 26080
AUD 16306 16406 16974
CAD 18403 18503 19055
CHF 31643 31673 32570
CNY 0 3508.4 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29415 29515 30393
GBP 34206 34256 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.78 182.28 188.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15374 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19468 19598 20332
THB 0 725.8 0
TWD 0 790 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11500000 11500000 12100000
Cập nhật: 22/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,700 25,750 26,100
USD20 25,700 25,750 26,100
USD1 25,700 25,750 26,100
AUD 16,301 16,451 17,519
EUR 29,422 29,572 30,750
CAD 18,304 18,404 19,720
SGD 19,501 19,651 20,127
JPY 180.58 182.08 186.77
GBP 34,199 34,349 35,138
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,397 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 13:00