Hỗ trợ doanh nghiệp: Cần sự chia sẻ của ngân hàng và các giải pháp

10:39 | 13/08/2021

2,879 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việc các ngân hàng thương mại hy sinh lợi nhuận không phải là một "nhiệm vụ bất khả thi", và điều này có thể mở ra một cánh cửa mới, ngăn nền kinh tế lao dốc...

Nếu thời gian giãn cách kéo dài quá lâu và không có các chính sách ứng phó kịp thời, thì cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 sẽ gây ra các hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế”. Đó là đánh giá của TS. Bùi Duy Tùng, Giảng viên Kinh tế, Đại học RMIT khi trao đổi với phóng viên Diễn đàn Doanh nghiệp.

việc các ngân hàng thương mại hy sinh lợi nhuận, có phải là một
Việc các ngân hàng thương mại hy sinh lợi nhuận, có phải là một "nhiệm vụ bất khả thi", trong khi điều đó có thể mở ra một cánh cửa mới, ngăn nền kinh tế lao dốc (Ảnh: Internet)

Doanh nghiệp sẽ ra sao?

Theo vị TS, đây là một cuộc khủng hoảng kép tác động đến toàn bộ các thành phần của nền kinh tế, từ khu vực sản xuất hàng hóa dịch vụ (phía cung) đến khu vực tiêu dùng (phía cầu). Tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng đột biến, đặc biệt là thất nghiệp tự nhiên, kéo theo sản lượng tiềm năng của nền kinh tế sẽ giảm. Từ đó dẫn đến nền kinh tế Việt Nam có thể sẽ bị suy thoái tạm thời.

Tuy nhiên, cuộc suy thoái lần này khá đặc biệt, nó là một cuộc suy thoái có chủ đích. Thông thường trong các cuộc khủng hoảng khác, các Chính phủ không thể kiểm soát được suy thoái có xảy ra hay không. Nhưng lần này, các Chính phủ để suy thoái xảy ra có mục đích để ưu tiên bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Chính phủ Việt Nam đã nhận ra điều này để có sự chủ động điều hướng hiệu quả hơn, tương đồng với “mục tiêu kép” đang hướng đến: Tăng trưởng kinh tế và ngăn chặn đại dịch. Điều này khác với năm 2020, khi các Chính phủ trên thế giới thường chọn mục tiêu ngăn chặn đại dịch và để suy thoái xảy ra có mục đích, khi họ áp dụng các biện pháp phong tỏa và giãn cách”, TS. Bùi Duy Tùng nêu quan điểm.

TS. Bùi Duy Tùng nhận định, từ góc nhìn trên, năm 2021, các Chính phủ sẽ chủ động hơn khi ứng phó với cuộc suy thoái này. Đồng nghĩa với việc, một khi Chính phủ để suy thoái xảy ra, họ sẽ có được vị thế chủ động trong việc ban hành các chính sách đối phó. Các chính sách tài khóa và tiền tệ sẽ được linh hoạt ban hành, để chống lại suy thoái. Các chính sách này thường hướng đến việc hỗ trợ doanh nghiệp và người dân đủ sức khỏe để vượt qua đại dịch.

TS. Bùi Duy Tùng
TS. Bùi Duy Tùng

Một điều đáng chú ý khác, trong bất kỳ cuộc chiến nào, “thương vong” là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, điều tồi tệ nhất có thể sẽ không xảy ra đối với nền kinh tế Việt Nam, do các chỉ đạo của Chính phủ và các đánh giá nhận định về tình hình kinh tế, vĩ mô để có những quyết sách kịp thời hiệu quả. Đặc biệt trong lĩnh vực tiền tệ năm 2021, NHNN đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm.

Dù vậy, đến lúc này, cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia kinh tế vẫn đang kêu gọi các ngân hàng thương mại hy sinh lợi nhuận để tài trợ cho các khoản vay giá rẻ, cắt giảm phí, hoãn trả khoản vay và cấp thêm các khoản vay không có bảo đảm, nhằm giúp các doanh nghiệp tồn tại trong thời kỳ suy thoái đang leo thang.

Việc các ngân hàng thương mại hy sinh lợi nhuận không hẳn là "nhiệm vụ bất khả thi". Bởi tuy có rủi ro trung hạn là sự ổn định tài chính với các ngân hàng sẽ thiếu một bộ đệm trang trải các khoản nợ xấu đang gia tăng, nhưng mặt khác điều này lại có thể mở ra một cánh cửa mới, ngăn nền kinh tế lao dốc.

Nếu nhiều công ty nhỏ có thể vượt qua những khó khăn, hàng triệu công việc sẽ được cứu, điều này quan trọng hơn nhiều đối với Việt Nam vào thời điểm này, và Chính phủ đang nỗ lực hết sức để bảo vệ nền kinh tế cũng như thị trường việc làm trong nước, vị chuyên gia đánh giá.

Giải pháp nội tại

Do mức độ và chiều hướng tác động của COVID-19 lên các ngành có sự khác nhau, nên sẽ không có một công thức chung về chiến lược thích ứng cho tất cả các doanh nghiệp. Bên cạnh sự chia sẻ cần thiết từ phía ngân hàng, về tổng thể, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng chiến lược thích ứng tuỳ vào từng hoàn cảnh, năng lực và sự chuyển động của thị trường cũng như dịch bệnh.

có xung lực, để phục hồi, phát triển và loại trừ các nguy cơ khủng hoảng sau khủng hoảng có thể xảy ra (Ảnh: Internet)
Doanh nghiệp cần có xung lực, để phục hồi, phát triển và loại trừ các nguy cơ khủng hoảng sau khủng hoảng có thể xảy ra (Ảnh: Internet)

Đại diện Ernst & Young Việt Nam đã nêu ra 3 nhóm giải pháp lớn để các doanh nghiệp có thể vận dụng, đó là:

Thứ nhất, tập trung quản lý khủng hoảng và quản lý thanh khoản. Ví dụ, thiết lập đội phản ứng nhanh để xử lý các vấn đề bất thường phát sinh về an toàn lao động, nguồn cung ứng, nguyên liệu sản xuất. Đây là cách làm hiệu quả mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể áp dụng.

Việc quản lý thanh khoản yêu cầu các doanh nghiệp phải cân đối dòng tiền, cắt giảm các khoản chi tiêu chưa cần thiết và theo dõi chặt chẽ công nợ. Các kế hoạch mua sắm tài sản có thể xem xét gác lại và lựa chọn các giải pháp thay thế như đi thuê tài sản để duy trì lượng tiền mặt dự phòng đủ lớn.

Thứ hai, hướng đến tạo ra những giá trị ngắn hạn thông qua việc rà soát và đưa ra các giải pháp có thể thực hiện ngay để tăng hiệu quả hoạt động và tăng dòng tiền. Các giải pháp có thể bao gồm rà soát lại danh mục đầu tư và bán hoặc thoái vốn thích hợp, phân bổ lại nguồn lực đầu tư nhằm tối ưu hiệu quả, và tối ưu các khoản vay. Mặt khác, các doanh nghiệp có thể cơ cấu lại dòng sản phẩm, khách hàng, chính sách giá; rà soát lại công tác mua sắm và chi phí chuỗi cung ứng, tối ưu thuế và tối ưu vốn lưu động.

Tuy nhiên, những chương trình cắt giảm thường không tạo ra các động lực tăng trưởng và phát triển trong dài hạn, thậm chí việc siết chặt chi phí và các nguồn lực quá mức có thể tác động tiêu cực đến khả năng tăng trưởng và phát triển trong tương lai - đẩy doanh nghiệp vào tình thế khó cạnh tranh và dẫn đến một trạng thái khủng hoảng mới sau khủng hoảng.

Thứ ba, doanh nghiệp cần tập trung vào chiến lược tái định vị, bao gồm cải tổ mô hình kinh doanh, xem xét lại mô hình tăng trưởng, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, và cải tổ phương thức phản hồi, nhằm tương tác tốt và hiệu quả hơn với hành vi và nhu cầu khách hàng. Vì đây chính là nội dung cốt lõi trong giai đoạn “bình thường mới”.

Như vậy, nếu nhận được sự hỗ trợ tối đa từ Chính phủ, tiếp cận dòng vốn tín dụng thuận lợi, cùng các bước xoay chuyển bằng nội lực của doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ có xung lực, để phục hồi, phát triển và loại trừ các nguy cơ khủng hoảng sau khủng hoảng có thể xảy ra.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Cơ quan báo chí, nhà báo được đề nghị miễn, giảm thuếCơ quan báo chí, nhà báo được đề nghị miễn, giảm thuế
Cần Cần "liều thuốc" đủ mạnh cho doanh nghiệp
NHNN sẽ giám sát kết quả giảm lãi suất chia sẻ cùng người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn bởi dịch Covid-19NHNN sẽ giám sát kết quả giảm lãi suất chia sẻ cùng người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn bởi dịch Covid-19

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,800 118,800
AVPL/SJC HCM 116,800 118,800
AVPL/SJC ĐN 116,800 118,800
Nguyên liệu 9999 - HN 10,800 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,790 11,240
Cập nhật: 12/06/2025 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 114.800
TPHCM - SJC 116.800 118.800
Hà Nội - PNJ 112.000 114.800
Hà Nội - SJC 116.800 118.800
Đà Nẵng - PNJ 112.000 114.800
Đà Nẵng - SJC 116.800 118.800
Miền Tây - PNJ 112.000 114.800
Miền Tây - SJC 116.800 118.800
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 118.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 118.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.390 113.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.690 113.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.460 112.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.150 85.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.340 66.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.070 47.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.020 104.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.190 69.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.750 74.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.170 77.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.400 42.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.270 37.770
Cập nhật: 12/06/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,150 ▲40K 11,590 ▲50K
Trang sức 99.9 11,140 ▲40K 11,580 ▲50K
NL 99.99 10,775 ▲40K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,775 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,360 ▲40K 11,650 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,360 ▲40K 11,650 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,360 ▲40K 11,650 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,700 ▲20K 11,900 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 11,700 ▲20K 11,900 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 11,700 ▲20K 11,900 ▲20K
Cập nhật: 12/06/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16426 16694 17270
CAD 18492 18769 19387
CHF 31021 31399 32034
CNY 0 3530 3670
EUR 29138 29407 30435
GBP 34331 34722 35666
HKD 0 3185 3387
JPY 172 176 183
KRW 0 17 19
NZD 0 15402 15991
SGD 19697 19978 20506
THB 713 776 829
USD (1,2) 25767 0 0
USD (5,10,20) 25806 0 0
USD (50,100) 25834 25868 26210
Cập nhật: 12/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,840 25,840 26,200
USD(1-2-5) 24,806 - -
USD(10-20) 24,806 - -
GBP 34,650 34,744 35,612
HKD 3,256 3,266 3,365
CHF 31,246 31,343 32,129
JPY 176.05 176.36 183.81
THB 760.56 769.95 823.78
AUD 16,687 16,747 17,210
CAD 18,712 18,772 19,326
SGD 19,839 19,901 20,568
SEK - 2,662 2,754
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,915 4,050
NOK - 2,527 2,615
CNY - 3,573 3,670
RUB - - -
NZD 15,348 15,491 15,940
KRW 17.5 18.25 19.7
EUR 29,285 29,308 30,520
TWD 785.3 - 950.11
MYR 5,736.92 - 6,473.13
SAR - 6,821.35 7,179.78
KWD - 82,694 87,954
XAU - - -
Cập nhật: 12/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,840 25,850 26,190
EUR 29,109 29,226 30,338
GBP 34,445 34,583 35,575
HKD 3,250 3,263 3,368
CHF 31,048 31,173 32,078
JPY 175.13 175.83 183.09
AUD 16,596 16,663 17,196
SGD 19,865 19,945 20,489
THB 776 779 813
CAD 18,680 18,755 19,281
NZD 15,434 15,941
KRW 18.14 19.98
Cập nhật: 12/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25850 25850 26210
AUD 16601 16701 17271
CAD 18674 18774 19328
CHF 31255 31285 32174
CNY 0 3587.2 0
CZK 0 1150 0
DKK 0 3978 0
EUR 29415 29515 30291
GBP 34625 34675 35793
HKD 0 3320 0
JPY 175.91 176.91 183.47
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6350 0
NOK 0 2580 0
NZD 0 15512 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2706 0
SGD 19852 19982 20714
THB 0 742.2 0
TWD 0 867 0
XAU 11250000 11250000 11850000
XBJ 10000000 10000000 11900000
Cập nhật: 12/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,840 25,890 26,150
USD20 25,840 25,890 26,150
USD1 25,840 25,890 26,150
AUD 16,643 16,793 17,859
EUR 29,390 29,540 30,816
CAD 18,613 18,713 20,029
SGD 19,915 20,065 20,596
JPY 176.24 177.74 182.41
GBP 34,667 34,817 35,599
XAU 11,678,000 0 11,882,000
CNY 0 3,470 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 12/06/2025 08:00