Giám đốc IEA: Nga sẽ thua trong cuộc chiến năng lượng với phương Tây

19:47 | 30/10/2022

473 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tờ Euronews dẫn lời ông Fatih Birol, Giám đốc điều hành Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), cho rằng, Nga sẽ thua trong cuộc chiến năng lượng với phương Tây.

Nga đã mất khách hàng lớn nhất - châu Âu

"Ngay trước khi cuộc chiến ở Ukraine nổ ra, khoảng 65% xuất khẩu khí đốt và 55% xuất khẩu dầu của Nga sang châu Âu. Cho đến nay châu Âu vẫn là thị trường lớn nhất, khách hàng lớn nhất của Nga và Nga đã mất khách hàng này mãi mãi", ông Birol nói với Euronews.

Bình luận của giám đốc điều hành IEA dường như ám chỉ đến hành động trả đũa mà Liên minh châu Âu (EU) áp dụng đối với khí đốt Nga tương tự lệnh cấm vận dầu Nga và những nỗ lực tốn kém nhằm đa dạng nguồn cung khí đốt, chủ yếu là khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG).

Giám đốc IEA: Nga sẽ thua trong cuộc chiến năng lượng với phương Tây - 1
Ông Fatih Birol, Giám đốc điều hành Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho rằng, Nga sẽ thua trong cuộc chiến năng lượng với phương Tây (Ảnh: IEA).

Khi được hỏi liệu Nga có thể thay thế các khách hàng ở châu Âu bằng các khách hàng ở các khu vực khác hay không, ông Birol cho rằng điều đó sẽ không dễ dàng vì "một lượng lớn" khí đốt của Nga bắt nguồn từ Tây Siberia và chảy đến châu Âu bằng các đường ống.

Trong khi đó, việc xây dựng các đường ống mới dẫn khí đốt tới Trung Quốc hay Ấn Độ có thể mất đến 10 năm và cần một lượng đầu tư, công nghệ đáng kể để hoàn thành.

"Vì vậy, đối với Nga, việc thay thế thị trường xuất khẩu khí đốt tự nhiên sang châu Âu, trong ngắn hạn, là một điều viển vông", ông Birol nói và ví von bán khí đốt không giống như bán hành ở chợ, đó là một công việc kinh doanh hoàn toàn khác.

Nhưng Nga không phải là nước duy nhất trải qua thời kỳ khó khăn này.

Trong cuộc phỏng vấn với Euronews, lãnh đạo IEA còn đề cập đến một cuộc khủng hoảng quốc tế có phạm vi và quy mô lớn chưa từng có đang tàn phá mọi ngóc ngách trên thế giới.

"Chúng ta đang ở giữa cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu thực sự đầu tiên. Thế giới chưa bao giờ chứng kiến một cuộc khủng hoảng năng lượng sâu và phức tạp như thế này", ông nói.

Ông lý giải: "Những năm 1970, chúng ta đã trải qua một cuộc khủng hoảng dầu mỏ, nhưng nó chỉ xảy ra ở dầu mỏ. Còn hiện nay, cuộc khủng hoảng diễn ra ở dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, than đá và điện. Mà lý do lại rất đơn giản đó là Nga, nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới".

"Mùa đông tới có thể khó khăn hơn" với châu Âu

Ông Birol mô tả châu Âu là "tâm chấn" của cơn bão và cho rằng việc phụ thuộc vào nhiên liệu giá rẻ của Nga trong hàng thập kỷ qua là một sai lầm, đây là gốc rễ của cuộc khủng hoảng hiện nay.

Người đứng đầu IEA dự báo châu lục này có thể sẽ vượt qua được mùa đông này và không có nhiều thiệt hại lớn nếu mùa đông không quá dài và quá lạnh cũng như không có những bất ngờ lớn xảy ra.

Tuy nhiên, ông Birol lại lo ngại nhiều hơn về mùa đông 2023-2024 ở châu Âu, với 3 lý do chính: Không còn khí đốt Nga, kinh tế Trung Quốc hồi phục và thị trường LNG thắt chặt hơn.

"Trong vài năm tới, chúng ta phải sẵn sàng đối phó với sự biến động và giá năng lượng cao, chúng ta phải tìm ra các giải pháp. Nhưng phải nói thẳng là, mùa đông năm nay đã khó và mùa đông năm sau có thể còn khó hơn", ông Birol nói.

Khi được hỏi về đề xuất áp trần giá khí đốt trên toàn châu Âu, ông Birol cho rằng đây là "ý tưởng hay", miễn là giá trần đủ rộng để hấp dẫn các nhà sản xuất LNG.

Ông cũng cho rằng việc lấp đầy các kho dự trữ khí đốt ngầm, hiện đã bơm được 93%, là một thành công trong năm nay. Nhưng để thu hút được, châu Âu đã phải trả "nhiều tiền" hơn các khách hàng sử dụng khí LNG khác.

"Nếu chúng ta đặt giá trần ở mức quá thấp, thì sức cạnh tranh sẽ kém đi rất nhiều", ông nói.

Liên quan đến việc mua chung khí đốt, một đề xuất đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia châu Âu, người đứng đầu IEA cho rằng nếu các nước châu Âu trở thành "người mua mạnh", họ có thể thắng thầu trước các khách hàng mua LNG khắp trên khắp thế giới.

Nói về dầu mỏ, nguồn thu chính của Nga, ông Birol bày tỏ sự không hài lòng về quyết định mới nhất của OPEC khi cắt giảm sản lượng 2 triệu thùng/ngày để tăng giá. Ông cho rằng các nhà sản xuất dầu mỏ hàng đầu thế giới nên hành động có trách nhiệm hơn trong thời kỳ khủng hoảng.

"Bây giờ, họ quyết định giảm sản lượng khai thác dầu sẽ khiến giá dầu tăng lên. Do đó, lạm phát sẽ tăng và kinh tế toàn cầu có thể rơi vào suy thoái", ông nói và cho rằng đó là một quyết định rất mạo hiểm và đáng tiếc.

Theo Dân trí

Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 30/10/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 30/10/2022
Nga nói châu Âu đang Nga nói châu Âu đang "tự sát về năng lượng"
Châu Âu thông qua luật cấm bán ô tô sử dụng năng lượng hóa thạch từ năm 2035Châu Âu thông qua luật cấm bán ô tô sử dụng năng lượng hóa thạch từ năm 2035
Vì sao châu Âu chưa hết lo lắng dù giá khí đốt lao dốc mạnh?Vì sao châu Âu chưa hết lo lắng dù giá khí đốt lao dốc mạnh?

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC HCM 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
AVPL/SJC ĐN 120,500 ▲4500K 122,500 ▲4500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,670 ▲340K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,660 ▲340K 11,809 ▲209K
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,620 ▲400K 12,140 ▲350K
Trang sức 99.9 11,610 ▲400K 12,130 ▲350K
NL 99.99 11,620 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,620 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,850 ▲400K 12,150 ▲350K
Miếng SJC Thái Bình 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Nghệ An 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Miếng SJC Hà Nội 12,050 ▲450K 12,250 ▲450K
Cập nhật: 22/04/2025 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16134 16401 16977
CAD 18234 18510 19127
CHF 31302 31681 32337
CNY 0 3358 3600
EUR 29201 29471 30504
GBP 33916 34305 35246
HKD 0 3211 3414
JPY 177 181 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15255 15845
SGD 19304 19583 20109
THB 696 759 814
USD (1,2) 25665 0 0
USD (5,10,20) 25703 0 0
USD (50,100) 25731 25765 26110
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,740 25,740 26,100
USD(1-2-5) 24,710 - -
USD(10-20) 24,710 - -
GBP 34,310 34,403 35,316
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,544 31,642 32,528
JPY 181.17 181.5 189.64
THB 745.51 754.72 807.03
AUD 16,440 16,500 16,947
CAD 18,517 18,577 19,078
SGD 19,515 19,575 20,195
SEK - 2,677 2,773
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,934 4,070
NOK - 2,462 2,550
CNY - 3,510 3,605
RUB - - -
NZD 15,246 15,387 15,840
KRW 16.94 17.66 18.98
EUR 29,418 29,442 30,699
TWD 720.83 - 872.03
MYR 5,528.36 - 6,236.43
SAR - 6,793.14 7,150.47
KWD - 82,517 87,741
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,710 25,730 26,070
EUR 29,308 29,426 30,519
GBP 34,090 34,227 35,201
HKD 3,272 3,285 3,392
CHF 31,441 31,567 32,486
JPY 180.18 180.90 188.52
AUD 16,314 16,380 16,909
SGD 19,515 19,593 20,127
THB 761 764 798
CAD 18,411 18,485 19,002
NZD 15,317 15,827
KRW 17.40 19.19
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25720 25720 26080
AUD 16306 16406 16974
CAD 18403 18503 19055
CHF 31643 31673 32570
CNY 0 3508.4 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29415 29515 30393
GBP 34206 34256 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.78 182.28 188.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15374 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19468 19598 20332
THB 0 725.8 0
TWD 0 790 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11500000 11500000 12100000
Cập nhật: 22/04/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,730 25,780 26,100
USD20 25,730 25,780 26,100
USD1 25,730 25,780 26,100
AUD 16,356 16,506 17,574
EUR 29,560 29,710 30,886
CAD 18,361 18,461 19,780
SGD 19,542 19,692 20,167
JPY 181.95 183.45 188.14
GBP 34,332 34,482 35,315
XAU 12,048,000 0 12,252,000
CNY 0 3,394 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 14:00