Giải pháp vực dậy sức khoẻ doanh nghiệp

11:00 | 11/08/2021

406 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo công bố mới nhất của Tổng cục Thống kê, các chỉ số sản xuất công nghiệp, đầu tư, thương mại, vận tải, du lịch... trong tháng 7-2021 đều giảm do Covid-19 bùng phát kéo dài. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc đẩy nhanh tốc độ tiêm vắc-xin, kiểm soát dịch, tạo thuận lợi lưu thông hàng hóa sẽ giúp Việt Nam phục hồi đà tăng trưởng.
Giải pháp vực dậy sức khoẻ doanh nghiệp

Khó khăn trong lưu thông hàng hóa sẽ ảnh hưởng đến việc duy trì chuỗi cung ứng

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 7-2021 chỉ tăng 1,8% so với tháng 6 và tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất trong 7 tháng qua. Tuy nhiên, tính chung 7 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2020.

Đợt dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 đã tấn công vào các “cứ điểm” sản xuất công nghiệp quan trọng, khiến sản xuất công nghiệp bị ảnh hưởng lớn. Theo đó, chỉ số IIP tháng 7-2021 của TP Hồ Chí Minh giảm 19,4%; Long An giảm 14,6%; Cà Mau giảm 13,7%; Đồng Tháp giảm 5,7%; Trà Vinh giảm 5,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 1,9%... Với các tỉnh có các khu công nghiệp lớn như Bắc Ninh và Bắc Giang, dù về cơ bản đã khống chế, kiểm soát được dịch và hoạt động sản xuất dần hồi phục, nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2020 rất nhiều. Chỉ số IIP của Bắc Giang tháng 5-2021 giảm 26,7%; tháng 6-2021 giảm 49,8% và tháng 7 giảm 15,3%. Chỉ số IIP của Bắc Ninh tháng 5-2021 tăng 23,9%; tháng 6-2021 giảm 8,6% và tháng 7-2021 tăng 1,1%.

Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7-2021 ước đạt 339.400 tỉ đồng, giảm 8,3% so với tháng 6 và giảm 19,8% so với cùng kỳ năm 2020. “Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng thời gian qua gần như dậm chân tại chỗ so với cùng kỳ 2 năm trước. Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ chỉ tương đương tốc độ tăng trưởng thấp của khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Đây là những tín hiệu đáng lo ngại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn kỳ vọng vào sự tăng trưởng của dịch vụ, đó là “ngôi sao” hy vọng của nền kinh tế Việt Nam” - ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - nói.

TS Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, Việt Nam duy trì mục tiêu kép là hợp lý, nhưng thời điểm này, giữa chống dịch và phát triển kinh tế, việc chống dịch quan trọng hơn. Nếu chúng ta chống dịch không tốt, không thể nào nỗ lực phát triển kinh tế được. Ba lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đang bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19, song chịu ảnh hưởng nhiều nhất là công nghiệp và dịch vụ.

TS Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, nhận định: Tình hình khó khăn của các doanh nghiệp, đặc biệt trong lưu thông hàng hóa, đã ảnh hưởng đến việc duy trì chuỗi cung ứng. Điển hình như cảng Cát Lái và một số cửa ngõ trung chuyển hàng hóa đi toàn cầu gặp ùn ứ...

Để đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2021, theo ông Vũ Tiến Lộc, Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ tiêm chủng vắc-xin, đặc biệt là khu vực động lực tăng trưởng của nền kinh tế, để vừa bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân, vừa duy trì sản xuất kinh doanh, tránh đứt gãy nguồn cung, chuẩn bị điều kiện và lộ trình để mở cửa nền kinh tế, tương ứng với tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin của người dân.

Giải pháp vực dậy sức khoẻ doanh nghiệp

Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp để phục hồi tăng trưởng kinh tế

Bên cạnh duy trì năng lực sản xuất, theo TS Nguyễn Trí Hiếu, Việt Nam cần chú ý nhiều hơn đến lưu thông hàng hóa, không chỉ là lưu thông bảo đảm nhu cầu thiết yếu của người dân, mà còn lưu thông từ nơi sản xuất đến thị trường toàn cầu, bởi GDP của Việt Nam về bản chất vẫn phụ thuộc phần lớn vào xuất nhập khẩu. Nếu không duy trì được lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm 2021, thậm chí một vài năm sau.

Còn theo TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, Việt Nam cần có các giải pháp thiết thực vực dậy sức khỏe của doanh nghiệp, bởi đây là động lực tăng trưởng thiết yếu của nền kinh tế. Chính phủ cần đẩy nhanh hơn nữa gói hỗ trợ 26.000 tỉ đồng; đồng thời, cần có gói hỗ trợ mạnh cho doanh nghiệp nhỏ, gói hỗ trợ lãi suất có trọng tâm trọng điểm cho một số lĩnh vực ngành nghề, địa phương khoảng 50.000-60.000 tỉ đồng, lãi suất cho vay khoảng 3-4%/năm, hỗ trợ trong vòng 1 năm.

Trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 còn hết sức phức tạp, Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) dự báo: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2021 khoảng 4,5-5,1%, thấp hơn 1,2-1,5 điểm phần trăm so với dự báo trước.

Để giảm thiểu các tác động tiêu cực và duy trì tăng trưởng ở mức cao nhất, thực hiện mục tiêu kép như Chính phủ đặt ra, nhóm chuyên gia của VEPR đề xuất:

Thứ nhất, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể và nhất quán đối phó với các tình huống của dịch bệnh. Các bất cập liên quan đến lây nhiễm chéo trong khu cách ly, khai báo y tế, đứt gãy trong lưu thông hàng hóa do các biện pháp cực đoan, thiếu trang thiết bị y tế cần phải được tập trung nguồn lực để giải quyết nhanh chóng.

Thứ hai, Chính phủ và các bộ, ngành nên khẩn trương triển khai và giải ngân các gói hỗ trợ đối với người lao động mất việc, đặc biệt là những lao động trong khu vực phi chính thức.

Thứ ba, chính sách tài khóa nên tập trung thúc đẩy giải ngân các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng lớn ở cấp quốc gia, làm nền tảng cho giai đoạn phục hồi sau đại dịch. Cùng với đó, chính sách tiền tệ thích ứng nên được thực hiện với tăng cung tiền được kiểm soát ở mức phù hợp (10%) và các biện pháp kiểm soát rủi ro ở mức vừa phải.

TS Cấn Văn Lực: Chính phủ cần đẩy nhanh hơn nữa gói hỗ trợ 26.000 tỉ đồng; đồng thời, cần có gói hỗ trợ mạnh cho doanh nghiệp nhỏ, gói hỗ trợ lãi suất có trọng tâm trọng điểm cho một số lĩnh vực ngành nghề, địa phương khoảng 50.000-60.000 tỉ đồng, lãi suất cho vay khoảng 3-4%/năm, hỗ trợ trong vòng 1 năm.

Phương Anh

Thu hút FDI trong lĩnh vực cơ khí: (Kỳ 1) Kết nối doanh nghiệp Thu hút FDI trong lĩnh vực cơ khí: (Kỳ 1) Kết nối doanh nghiệp "ngoại" và "nội"
Đề xuất miễn giảm khoảng 20 nghìn tỷ đồng tiền thuếĐề xuất miễn giảm khoảng 20 nghìn tỷ đồng tiền thuế
Thủ tướng: Chúng ta phải có niềm tin chiến thắng, phải có bản lĩnh để vượt quaThủ tướng: Chúng ta phải có niềm tin chiến thắng, phải có bản lĩnh để vượt qua
Thủ tướng: Đây là thời điểm “lửa thử vàng- gian nan thử sức’, ‘chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”Thủ tướng: Đây là thời điểm “lửa thử vàng- gian nan thử sức’, ‘chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”
Đề xuất đặc biệt cho Đề xuất đặc biệt cho "đại bàng" Mỹ bay chuyên cơ khảo sát dự án hàng tỷ USD
Tham vọng lớn của LoshipTham vọng lớn của Loship

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC HCM 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC ĐN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,700 ▲370K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,690 ▲370K 11,800 ▲200K
Cập nhật: 22/04/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,520 ▲300K 12,040 ▲250K
Trang sức 99.9 11,510 ▲300K 12,030 ▲250K
NL 99.99 11,520 ▲300K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,520 ▲300K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Nghệ An 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Hà Nội 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Cập nhật: 22/04/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16099 16366 16947
CAD 18238 18514 19137
CHF 31368 31747 32401
CNY 0 3358 3600
EUR 29217 29487 30523
GBP 33910 34300 35247
HKD 0 3218 3421
JPY 178 182 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15287 15875
SGD 19325 19605 20136
THB 697 760 814
USD (1,2) 25714 0 0
USD (5,10,20) 25753 0 0
USD (50,100) 25781 25815 26120
Cập nhật: 22/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 34,252 34,345 35,253
HKD 3,285 3,295 3,395
CHF 31,529 31,627 32,513
JPY 181.03 181.35 189.44
THB 745.19 754.4 807.64
AUD 16,415 16,474 16,915
CAD 18,517 18,576 19,078
SGD 19,518 19,579 20,198
SEK - 2,662 2,758
LAK - 0.91 1.28
DKK - 3,928 4,064
NOK - 2,451 2,539
CNY - 3,509 3,604
RUB - - -
NZD 15,245 15,386 15,834
KRW 16.9 - 18.94
EUR 29,370 29,393 30,645
TWD 721.13 - 873.02
MYR 5,533.92 - 6,241.2
SAR - 6,798.78 7,156.33
KWD - 82,613 87,857
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,760 26,100
EUR 29,263 29,381 30,473
GBP 34,115 34,252 35,226
HKD 3,277 3,290 3,397
CHF 31,400 31,526 32,443
JPY 180.36 181.08 188.70
AUD 16,321 16,387 16,917
SGD 19,511 19,589 20,123
THB 761 764 797
CAD 18,446 18,520 19,038
NZD 15,328 15,839
KRW 17.43 19.22
Cập nhật: 22/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25790 25790 26120
AUD 16279 16379 16944
CAD 18424 18524 19078
CHF 31638 31668 32546
CNY 0 3517.5 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29405 29505 30378
GBP 34222 34272 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.92 182.42 188.97
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15395 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19490 19620 20341
THB 0 726.8 0
TWD 0 790 0
XAU 12200000 12200000 12400000
XBJ 11700000 11700000 12400000
Cập nhật: 22/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,120
USD20 25,780 25,830 26,120
USD1 25,780 25,830 26,120
AUD 16,347 16,497 17,568
EUR 29,545 29,695 30,871
CAD 18,377 18,477 19,796
SGD 19,562 19,712 20,185
JPY 181.83 183.33 188.02
GBP 34,311 34,461 35,248
XAU 12,198,000 0 12,402,000
CNY 0 3,398 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 21:00