Thu hút FDI

Đi nhanh, chủ động mới đón được "đại bàng", đi chậm chỉ đón được "chim sẻ"

13:33 | 01/06/2020

264 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đó là ý kiến của nhiều chuyên gia về việc Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong thu hút các tập đoàn FDI lớn thời gian tới.

Tại Hội thảo "Nhận diện các điểm nghẽn phát triển của Việt Nam trong bối cảnh hậu Covid -19: Một số yêu cầu cải cách thể chế" do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức tại Hà Nội sáng nay (1/6), nhiều chuyên gia, học giả Việt Nam đưa ra hàng loạt ý kiến về phá bỏ các rào cản, giúp nền kinh tế phát triển sau đại dịch.

TS.Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế, nguyên Phó Viện trưởng Viện CIEM cho rằng, Việt Nam cần lường trước các diễn biến của thế giới để có các biện pháp điều hành kinh tế phù hợp.

Đi nhanh, chủ động mới đón được
Chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành

"Hiện, xu hướng va đập của các nền kinh tế, các quốc gia ngày càng lớn, chủ nghĩa đa cực, đơn cực, song cực khiến các nước nhỏ, yếu thế phải có chính sách linh hoạt. Thời hậu Covid-19 càng kích hoạt cho xu hướng chính trị hóa kinh tế tăng cao. Minh chứng là qua xung đột giữa Mỹ - Trung, xu hướng rút các doanh nghiệp về nước hoặc xu hướng bảo hộ công nghiệp gia tăng....", TS. Thành nói.

Theo ông Thành, thế giới đang thay đổi nhanh, bất định. Dòng đầu tư đang dịch chuyển, nên nếu không chủ động là chúng ta không nắm, không tận dụng được.

"Không phải nghiễm nhiên Việt Nam lập tổ công tác về thu hút FDI. Chúng ta phải từ thế bị động, dọn ổ cho họ, giờ còn phải chủ động, tăng tốc cùng với cải thiện chính mình để mời gọi, 'săn' họ vào", ông Thành nhấn mạnh.

Tuy nhiên, theo TS. Thành: "Bài toán đặt ra là trong hàng loạt các thay đổi, thì chọn FDI nhưng vẫn không được bỏ quên phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Phát triển doanh nghiệp bản địa cần được xem là nhiệm vụ quan trọng để Việt Nam tự cường".

Còn theo ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): Sau dịch Covid-19, Việt Nam có lợi thế chứng minh được môi trường kinh doanh ổn định, quản trị nhà nước tốt và đặc biệt chúng ta vẫn tham gia được vào sân chơi với EU, nơi mà nhiều đối thủ của chúng ta trong khu vực không có được.

Đi nhanh, chủ động mới đón được
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, VCCI

Tuy nhiên, bối cảnh mới, địa kinh tế chính trị thay đổi, Việt Nam cần làm mới mình, phải vận hành nhanh hơn.

"Việt Nam phải thúc đẩy môi trường kinh doanh từ tháo gỡ khó khăn sang tạo thuận lợi, đây mới là tiền đề cho mọi vấn đề. Chất lượng điều hành và sự thuận lợi trong thủ tục hành chính là điều các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu chứ không phải các con số giấy phép được loại bỏ", chuyên gia VCCI nói.

Ông Tuấn đánh giá: Việt Nam đã lập tổ công tác đặc biệt để thu hút FDI, đây là hành động tốt. Chúng ta cần tích cực trong chủ động chứ không phải là tích cực trong bị động. Cần chủ động săn nhà đầu tư, "săn đại bàng", kêu gọi họ vào Việt Nam chứ không đơn thuần là dọn chỗ, để họ nhìn thấy và đi vào.

Trong khi đó, theo nguyên Viện trưởng Viện CIEM, TS. Lê Xuân Bá thì Việt Nam vẫn đang bị phụ thuộc quá nhiều vào FDI. Các doanh nghiệp FDI chiếm giá trị xuất khẩu lớn, chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối trong tăng trưởng RGDP của nhiều địa phương.

Ông Bá cho rằng, FDI không mang nhiều công nghệ vào Việt Nam, chỉ tận dụng lợi thế thị trường, lao động, thâm dụng tài nguyên... đến chừng mực nào đó, họ chuyển đi, chúng ta không còn lại gì!?

Đi nhanh, chủ động mới đón được
TS. Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng Viện CIEM

Do đó, "Việt Nam cần xem xét đặc biệt đến cơ chế thuận lợi để phát triển các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp dân tộc. Bởi hiện đang có nhiều câu hỏi nếu xu hướng bảo hộ gia tăng, doanh nghiệp có xuất khẩu được không, hay quay về khai thác thị trường nội địa, nơi bị bỏ ngỏ nhiều năm", ông Bá nói.

Nguyên Viện trưởng Viện CIEM cho rằng: "Việt Nam cần nghiên cứu đưa ra các dự báo sớm cho nền kinh tế trong trung và dài hạn về xu hướng toàn cầu hóa và các cuộc chơi lớn. Có dự báo sớm, chúng ta càng thắng lớn".

Theo ông Bá, điều quan trọng nhất Việt Nam hiện vẫn là phải thay đổi thể chế kinh tế.

"Đặt ra nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế nhưng không dám hy sinh. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhưng không muốn doanh nghiệp sụp đổ, người lao động bị thất nghiệp. Tái cơ cấu ngân sách mà không giảm chi, không muốn thất thu... Vậy thì không ai dám làm cả", ông Bá phân tích.

Dẫn bài học thành công của Hàn Quốc những năm thuộc thập kỷ 70 đến 90 của thế kỷ 20, ông Bá phân tích: Hàn Quốc là một ví dụ điển hình về sự chuyển đổi thể chế kinh tế dưới thời Thủ tướng Park Chung-Hee, từ một nước nghèo, thu nhập thấp, sau gần 40 cải cách với "kỳ tích sông Hàn" Hàn Quốc đã trở thành một "con rồng châu Á" thực sự.

"Mấu chốt của cách quản trị Nhà nước của họ là thay đổi pháp luật, xử rất nghiêm quan chức tham nhũng, không thực hiện đúng quy định pháp luật'', ông Bá cho hay.

Theo Dân trí

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,800 ▲800K 118,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 116,800 ▲800K 118,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 116,800 ▲800K 118,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,780 ▲50K 11,300 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,770 ▲50K 11,290 ▲50K
Cập nhật: 11/06/2025 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 114.800
TPHCM - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Hà Nội - PNJ 112.000 114.800
Hà Nội - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 114.800
Đà Nẵng - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Miền Tây - PNJ 112.000 114.800
Miền Tây - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.390 113.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.690 113.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.460 112.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.150 85.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.340 66.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.070 47.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.020 104.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.190 69.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.750 74.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.170 77.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.400 42.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.270 37.770
Cập nhật: 11/06/2025 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 ▲30K 11,520 ▲60K
Trang sức 99.9 11,080 ▲30K 11,510 ▲60K
NL 99.99 10,740 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 ▲30K 11,580 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 ▲30K 11,580 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 ▲30K 11,580 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 11,650 11,850
Miếng SJC Nghệ An 11,650 11,850
Miếng SJC Hà Nội 11,650 11,850
Cập nhật: 11/06/2025 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16375 16643 17225
CAD 18478 18755 19369
CHF 30944 31321 31972
CNY 0 3530 3670
EUR 29030 29300 30332
GBP 34236 34627 35566
HKD 0 3182 3384
JPY 172 176 182
KRW 0 18 19
NZD 0 15376 15967
SGD 19652 19933 20461
THB 711 775 828
USD (1,2) 25741 0 0
USD (5,10,20) 25780 0 0
USD (50,100) 25808 25842 26184
Cập nhật: 11/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,830 25,830 26,190
USD(1-2-5) 24,797 - -
USD(10-20) 24,797 - -
GBP 34,675 34,769 35,646
HKD 3,255 3,265 3,364
CHF 31,253 31,350 32,140
JPY 176.19 176.5 183.98
THB 760.73 770.13 823.47
AUD 16,691 16,751 17,214
CAD 18,715 18,775 19,329
SGD 19,836 19,898 20,565
SEK - 2,663 2,756
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,916 4,051
NOK - 2,529 2,618
CNY - 3,570 3,668
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,982
KRW 17.6 18.36 19.82
EUR 29,294 29,317 30,532
TWD 785.29 - 950.73
MYR 5,741.47 - 6,475.25
SAR - 6,818.71 7,177.04
KWD - 82,643 87,900
XAU - - -
Cập nhật: 11/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,860 25,870 26,210
EUR 29,167 29,284 30,397
GBP 34,682 34,821 35,816
HKD 3,253 3,266 3,371
CHF 31,134 31,259 32,167
JPY 175.93 176.64 183.96
AUD 16,657 16,724 17,258
SGD 19,908 19,988 20,534
THB 777 780 815
CAD 18,677 18,752 19,278
NZD 15,521 16,029
KRW 18.38 20.26
Cập nhật: 11/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25830 25830 26190
AUD 16611 16711 17274
CAD 18676 18776 19327
CHF 31254 31284 32177
CNY 0 3583.3 0
CZK 0 1150 0
DKK 0 3978 0
EUR 29390 29490 30262
GBP 34621 34671 35792
HKD 0 3320 0
JPY 176.21 177.21 183.78
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6350 0
NOK 0 2580 0
NZD 0 15546 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2706 0
SGD 19847 19977 20699
THB 0 742.9 0
TWD 0 867 0
XAU 11350000 11350000 11850000
XBJ 10000000 10000000 11850000
Cập nhật: 11/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,830 25,880 26,150
USD20 25,830 25,880 26,150
USD1 25,830 25,880 26,150
AUD 16,629 16,779 17,852
EUR 29,400 29,550 30,825
CAD 18,616 18,716 20,032
SGD 19,905 20,055 20,533
JPY 176.45 177.95 182.6
GBP 34,671 34,821 35,611
XAU 11,678,000 0 11,882,000
CNY 0 3,469 0
THB 0 777 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/06/2025 09:00