Dầu thô bị áp giá trần, Nga có thể vẫn thắng G7 trong cuộc chiến năng lượng

21:54 | 10/12/2022

8,494 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Các chuyên gia cho rằng, cơ chế áp trần giá dầu của G7 không những không khiến Nga bị tổn hại mà còn đẩy nhanh lạm phát và suy thoái ở phương Tây.
Dầu thô bị áp giá trần, Nga có thể vẫn thắng G7 trong cuộc chiến năng lượng - 1
Một nhà máy lọc dầu của Nga ở vùng Amur (Ảnh: Tass).

Mức giá trần 60 USD mà nhóm các nước G7 áp dụng đối với dầu thô của Nga chính thức bắt đầu có hiệu lực từ ngày 5/12, động thái đẩy giá dầu tăng 3%.

Tuy nhiên, các chuyên gia năng lượng cho rằng đây mới chỉ là khởi đầu của việc tăng giá xăng dầu.

"Việc phương Tây áp giá trần đối với dầu thô của Nga là không khả thi. Vì vậy, cơ chế này chắc chắn sẽ thất bại thảm hại", tiến sĩ Mamdouh G. Salameh, một nhà kinh tế học chuyên về ngành dầu quốc tế và chuyên gia năng lượng toàn cầu nhận định. "Cả Nga, thị trường dầu mỏ toàn cầu và OPEC+ sẽ phản đối cơ chế này".

Ông Salameh cho biết, Nga đã nhiều lần tuyên bố sẽ ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang bất kỳ quốc gia hoặc nhóm quốc gia nào thực hiện giới hạn giá. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt năng lượng trên thị trường và giá dầu tiếp tục tăng. Giá dầu Brent có thể tăng lên 100-110 USD/thùng trước cuối năm nay.

Tương tự, giá dầu thô Brent được Ngân hàng Mỹ (BofA) dự đoán sẽ lên mức 110 USD/thùng vào năm 2023. BofA đã cảnh báo về những rủi ro có thể gây sức ép lên giá năng lượng.

BofA lý giải việc Nga từ chối bán dầu cho bất kỳ bên tham gia áp giá trần có thể dẫn đến việc xuất khẩu dầu thô giảm tới một triệu thùng mỗi ngày. Rõ ràng, điều này có thể làm chi phí xăng dầu tăng, khiến 1 thùng dầu Brent đắt thêm 20-25 USD.

Tình trạng gián đoạn nguồn cung có thể xảy ra khi các quốc gia OPEC hoặc OPEC+ quyết định cắt giảm sản lượng chung, từ đó khiến mọi việc nghiêm trọng hơn và có thể nhấn chìm thị trường năng lượng thế giới.

Theo chuyên gia Salameh, các thành viên OPEC+ đều mong chờ việc giá dầu Brent tăng từ 100 USD trở lên, ngoại trừ Nga. Họ cần giá dầu tăng để cân bằng ngân sách. Ông dự báo nhóm này sẽ đánh giá phản ứng của thị trường đối với mức giá trần và sau đó hành động.

Trước đó, câu lạc bộ gồm 23 nhà sản xuất dầu mỏ đã nhóm họp vào ngày 4/12 để thảo luận về hướng đi của chính sách sản lượng. Họ đã nhất trí tuân thủ chính sách hiện tại là giảm sản lượng dầu 2 triệu thùng/ngày cho đến cuối năm 2023.

"Trong trường hợp không thể tưởng tượng được là thị trường không phản ứng với mức trần, thì OPEC+ sẽ cắt giảm sản lượng để đảm bảo sự ổn định của giá cả và nguồn cung", chuyên gia năng lượng này dự đoán.

Trong khi đó, Tom Luongo, nhà bình luận tài chính và chính trị, cho rằng giá dầu chắc chắn tăng. "Vì vậy, vào năm 2023, hãy chờ đợi một làn sóng lạm phát lớn khác do giá năng lượng tăng, tình trạng thiếu lương thực thực phẩm và Trung Quốc mở cửa lại nền kinh tế gây sức ép lên giá kim loại", chuyên gia này nói.

Lý giải tại sao cơ chế áp giá trần của phương Tây đối với dầu Nga sẽ thất bại, ông Salameh cho rằng Nga không thiếu khách mua dầu. "Nếu mục đích của việc áp mức trần là buộc giảm doanh thu xuất khẩu dầu mỏ của Nga thì nó sẽ thất bại hoàn toàn".

Ngoài ra, Nga cũng đang sở hữu đội tàu chở dầu hùng mạnh đến mọi nơi trên thế giới và không cần sử dụng các công ty vận tải cũng như công ty bảo hiểm của phương Tây.

"Khách hàng của Nga sẽ tự chi trả phí bảo hiểm cho những chuyến hàng nhập khẩu dầu. Ngay cả khi Nga bán ít dầu hơn, doanh thu của nước này cũng không bị suy giảm vì giá dầu đã tăng cao hơn", ông nói thêm.

Kế hoạch của G7 phần lớn phụ thuộc vào việc cấm vận các công ty vận tải và bảo hiểm cung cấp dịch vụ cho Nga trừ khi Moscow đồng ý bán dầu thô với giá 60 USD/thùng hoặc thấp hơn.

Tuy nhiên, Moscow đã nói rõ sẽ không khuất phục trước các yêu cầu của G7 và tự dùng đội tàu chở dầu và các công ty bảo hiểm của riêng mình.

Hồi tháng 5, Rosneft và Gazprom Neft - hai nhà sản xuất dầu lớn của Nga - bắt đầu tăng các đơn đặt hàng trước từ tàu chở dầu của Sovcomflot, công ty vận tải biển lớn nhất của Nga.

Hơn nữa, các phương tiện truyền thông phương Tây đều đồng loạt đưa tin về việc Nga cũng yêu cầu mua thêm 100 tàu. Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Nga (RNRC) và IPJSC Ingosstrakh được cho là sẽ trở thành những nhà bảo hiểm chính cho các hãng vận tải dầu của Nga.

Kế hoạch của G7 và lệnh cấm vận của EU đối với nhập khẩu dầu thô của Nga bằng đường biển, cũng có hiệu lực vào ngày 5/12, sẽ không ngăn cản Nga xuất khẩu hoặc vận chuyển dầu theo bất kỳ cách nào, ông Luongo nhấn mạnh.

"Điều sẽ xảy ra là bản đồ phân phối dầu trên toàn thế giới sẽ thay đổi", chuyên gia này lưu ý.

"Năng lượng chảy về phía tây giờ sẽ chảy về phía đông và nam. Đường ống ESPO sẽ được sử dụng hết công suất khi nhu cầu từ Đông Nam Á tăng lên... Trung Quốc và Ấn Độ đã lấp đầy khoảng trống. Dầu của Nga sẽ được trộn ở Bahamas hoặc các cảng lưu trữ khác và sau đó được gửi trở lại các nhà máy lọc dầu của EU", ông nói thêm.

G7 có thể lĩnh hậu quả?

Theo chuyên gia Salameh, Nga có thể trở thành người chiến thắng cuối cùng trong khi EU có nguy cơ thua cuộc trong cuộc chiến năng lượng "khi cuộc sống của người dân châu Âu đang trên đà lao dốc và nền kinh tế của khối trên bờ vực suy thoái nghiêm trọng".

Cuối cùng, EU đã trở thành con mồi cho kế hoạch địa chính trị của Washington. Ông chỉ ra Mỹ châm ngòi cho cuộc xung đột Nga - Ukraine, không những âm mưu làm suy yếu Moscow, phá vỡ quan hệ song phương Nga - Trung, mà còn "phá hủy EU với tư cách là một liên minh và biến các thành viên riêng lẻ của khối này thành các con rối".

"EU sẽ phải đối mặt với giá năng lượng tiếp tục cao, dòng vốn ròng chảy ra ngoài do thiếu đầu tư và đồng tiền giảm giá khi khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường toàn cầu sụp đổ", ông Luongo liên tục cảnh báo.

"Họ cũng sẽ bị đánh giá là một đối tác thương mại không đáng tin cậy vì liên tục thay đổi các điều khoản hợp đồng trong khi vẫn đang còn hiệu lực", ông nói thêm.

Suranjali Tandon, trợ lý giáo sư tại Viện Chính sách và Tài chính Công Quốc gia có trụ sở tại Delhi (Ấn Độ), cho rằng sáng kiến áp giá trần của G7 có thể có tác động tiêu cực hơn nữa đối với nền kinh tế toàn cầu.

Theo bà, giá dầu tăng cao có thể dẫn đến những khó khăn chính trị cho các quốc gia đang đối phó với sự gia tăng bất bình đẳng và cũng có thể cản trở sự phục hồi kinh tế toàn cầu.

Đồng thời, hệ thống tài chính toàn cầu hiện nay vốn lấy phương Tây làm trung tâm có thể khiến các nước thứ 3 rời xa tiền tệ của các nước G7 hơn nữa do các dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm từ các nước thứ ba tăng giá, bà cảnh báo.

Theo nữ học giả Ấn Độ, sự chia rẽ trong khối châu Âu cũng có thể sẽ gia tăng.

Các chính trị gia ở mỗi quốc gia châu Âu cũng sẽ đối mặt với những nghi vấn từ các cử tri khi chính sách năng lượng không nhất quán, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái và khủng hoảng năng lượng bủa vây Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Những rạn nứt đầu tiên đã xuất hiện tại EU khi các cuộc biểu tình lẻ tẻ nổ ra gần đây trên khắp "lục địa già" nhằm kêu gọi chính phủ dỡ bỏ các lệnh trừng phạt năng lượng đối với Nga.

Theo các nhà quan sát, Mỹ cũng có khả năng bị ảnh hưởng bất lợi. Chuyên gia Salameh cho rằng, vì Mỹ sẽ phải trả giá cao hơn cho lượng dầu nhập khẩu hơn 9 triệu thùng dầu mỗi ngày, nên sẽ làm tăng thâm hụt ngân sách và đẩy nhanh lạm phát và do đó là suy thoái.

Nói chung, các nước G7 có thể phải trả giá đắt cho chủ nghĩa phiêu lưu năng lượng và đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng tồi tệ, chuyên gia năng lượng trên cảnh báo.

Theo Dân trí

Áp trần giá dầu Nga, Mỹ và EU Áp trần giá dầu Nga, Mỹ và EU "thích đủ thứ"
Lệnh cấm vận dầu Nga sắp có hiệu lực, thị trường dầu mỏ sẽ ra sao?Lệnh cấm vận dầu Nga sắp có hiệu lực, thị trường dầu mỏ sẽ ra sao?
Trung Quốc lên tiếng sau khi phương Tây áp giá trần với dầu NgaTrung Quốc lên tiếng sau khi phương Tây áp giá trần với dầu Nga
Tàu chở dầu cũ Tàu chở dầu cũ "hái ra tiền" nhờ lệnh trừng phạt dầu Nga
Xuất khẩu dầu Nga đã giảm mạnh sau vòng trừng phạt mớiXuất khẩu dầu Nga đã giảm mạnh sau vòng trừng phạt mới
Bloomberg: Doanh nghiệp Trung Quốc mua dầu Nga trên giá trần của phương TâyBloomberg: Doanh nghiệp Trung Quốc mua dầu Nga trên giá trần của phương Tây

  • bidv-14-4
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,190 ▲30K 11,640 ▲30K
Trang sức 99.9 11,180 ▲30K 11,630 ▲30K
NL 99.99 10,875 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,875 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,400 ▲30K 11,700 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,400 ▲30K 11,700 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,400 ▲30K 11,700 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 11,800 ▲50K 12,000 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 11,800 ▲50K 12,000 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 11,800 ▲50K 12,000 ▲50K
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▲500K 120,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▲500K 120,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▲500K 120,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,950 ▲50K 11,200 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,940 ▲50K 11,190 ▲50K
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.200 ▲600K 117.000 ▲700K
TPHCM - SJC 118.000 ▲500K 120.000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 114.200 ▲600K 117.000 ▲700K
Hà Nội - SJC 118.000 ▲500K 120.000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 114.200 ▲600K 117.000 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 118.000 ▲500K 120.000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 114.200 ▲600K 117.000 ▲700K
Miền Tây - SJC 118.000 ▲500K 120.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.200 ▲600K 117.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▲500K 120.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.200 ▲600K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▲500K 120.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.200 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.200 ▲600K 117.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.200 ▲600K 117.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 ▲600K 116.000 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 ▲590K 115.880 ▲590K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 ▲590K 115.170 ▲590K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 ▲590K 114.940 ▲590K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 ▲450K 87.150 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 ▲350K 68.010 ▲350K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 ▲250K 48.410 ▲250K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 ▲550K 106.360 ▲550K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 ▲370K 70.910 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 ▲390K 75.550 ▲390K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 ▲410K 79.030 ▲410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 ▲220K 43.650 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 ▲200K 38.430 ▲200K
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,190 ▲30K 11,640 ▲30K
Trang sức 99.9 11,180 ▲30K 11,630 ▲30K
NL 99.99 10,875 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,875 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,400 ▲30K 11,700 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,400 ▲30K 11,700 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,400 ▲30K 11,700 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 11,800 ▲50K 12,000 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 11,800 ▲50K 12,000 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 11,800 ▲50K 12,000 ▲50K
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▲500K 120,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▲500K 120,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▲500K 120,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,950 ▲50K 11,200 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,940 ▲50K 11,190 ▲50K
Cập nhật: 26/06/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,960 26,010 26,260
USD20 25,960 26,010 26,260
USD1 25,960 26,010 26,260
AUD 16,771 16,921 17,986
EUR 30,264 30,414 31,584
CAD 18,662 18,762 20,074
SGD 20,210 20,360 20,832
JPY 178.13 179.63 184.25
GBP 35,458 35,608 36,389
XAU 11,778,000 0 11,982,000
CNY 0 3,497 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16546 16814 17393
CAD 18548 18825 19441
CHF 31990 32372 33021
CNY 0 3570 3690
EUR 29991 30264 31291
GBP 35082 35476 36421
HKD 0 3197 3399
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15519 16107
SGD 19953 20235 20764
THB 720 783 836
USD (1,2) 25855 0 0
USD (5,10,20) 25895 0 0
USD (50,100) 25923 25957 26299
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,930 25,930 26,290
USD(1-2-5) 24,893 - -
USD(10-20) 24,893 - -
GBP 35,343 35,439 36,328
HKD 3,267 3,277 3,376
CHF 32,112 32,212 33,018
JPY 177.44 177.76 185.25
THB 767.91 777.4 831.97
AUD 16,784 16,844 17,312
CAD 18,727 18,788 19,338
SGD 20,089 20,152 20,827
SEK - 2,713 2,807
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,018 4,157
NOK - 2,537 2,625
CNY - 3,595 3,692
RUB - - -
NZD 15,453 15,596 16,043
KRW 17.77 18.54 20.01
EUR 30,066 30,090 31,333
TWD 810.18 - 980.84
MYR 5,773.24 - 6,516.91
SAR - 6,845.29 7,204.63
KWD - 83,161 88,418
XAU - - -
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,950 25,950 26,290
EUR 29,928 30,048 31,172
GBP 35,147 35,288 36,289
HKD 3,263 3,276 3,381
CHF 31,907 32,035 32,976
JPY 176.31 177.02 184.36
AUD 16,715 16,782 17,317
SGD 20,121 20,202 20,755
THB 783 786 822
CAD 18,718 18,793 19,319
NZD 15,553 16,062
KRW 18.40 20.28
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25935 25935 26295
AUD 16721 16821 17387
CAD 18726 18826 19380
CHF 32219 32249 33140
CNY 0 3607.1 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30270 30370 31142
GBP 35390 35440 36550
HKD 0 3330 0
JPY 177.74 178.74 185.29
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15628 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20114 20244 20965
THB 0 749 0
TWD 0 880 0
XAU 11600000 11600000 12060000
XBJ 10550000 10550000 12060000
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,960 26,010 26,260
USD20 25,960 26,010 26,260
USD1 25,960 26,010 26,260
AUD 16,771 16,921 17,986
EUR 30,264 30,414 31,584
CAD 18,662 18,762 20,074
SGD 20,210 20,360 20,832
JPY 178.13 179.63 184.25
GBP 35,458 35,608 36,389
XAU 11,778,000 0 11,982,000
CNY 0 3,497 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16546 16814 17393
CAD 18548 18825 19441
CHF 31990 32372 33021
CNY 0 3570 3690
EUR 29991 30264 31291
GBP 35082 35476 36421
HKD 0 3197 3399
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15519 16107
SGD 19953 20235 20764
THB 720 783 836
USD (1,2) 25855 0 0
USD (5,10,20) 25895 0 0
USD (50,100) 25923 25957 26299
Cập nhật: 26/06/2025 20:00

Chủ đề

prev
next