Dầu thô bị áp giá trần, Nga có thể vẫn thắng G7 trong cuộc chiến năng lượng

21:54 | 10/12/2022

8,498 lượt xem
|
Các chuyên gia cho rằng, cơ chế áp trần giá dầu của G7 không những không khiến Nga bị tổn hại mà còn đẩy nhanh lạm phát và suy thoái ở phương Tây.
Dầu thô bị áp giá trần, Nga có thể vẫn thắng G7 trong cuộc chiến năng lượng - 1
Một nhà máy lọc dầu của Nga ở vùng Amur (Ảnh: Tass).

Mức giá trần 60 USD mà nhóm các nước G7 áp dụng đối với dầu thô của Nga chính thức bắt đầu có hiệu lực từ ngày 5/12, động thái đẩy giá dầu tăng 3%.

Tuy nhiên, các chuyên gia năng lượng cho rằng đây mới chỉ là khởi đầu của việc tăng giá xăng dầu.

"Việc phương Tây áp giá trần đối với dầu thô của Nga là không khả thi. Vì vậy, cơ chế này chắc chắn sẽ thất bại thảm hại", tiến sĩ Mamdouh G. Salameh, một nhà kinh tế học chuyên về ngành dầu quốc tế và chuyên gia năng lượng toàn cầu nhận định. "Cả Nga, thị trường dầu mỏ toàn cầu và OPEC+ sẽ phản đối cơ chế này".

Ông Salameh cho biết, Nga đã nhiều lần tuyên bố sẽ ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang bất kỳ quốc gia hoặc nhóm quốc gia nào thực hiện giới hạn giá. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt năng lượng trên thị trường và giá dầu tiếp tục tăng. Giá dầu Brent có thể tăng lên 100-110 USD/thùng trước cuối năm nay.

Tương tự, giá dầu thô Brent được Ngân hàng Mỹ (BofA) dự đoán sẽ lên mức 110 USD/thùng vào năm 2023. BofA đã cảnh báo về những rủi ro có thể gây sức ép lên giá năng lượng.

BofA lý giải việc Nga từ chối bán dầu cho bất kỳ bên tham gia áp giá trần có thể dẫn đến việc xuất khẩu dầu thô giảm tới một triệu thùng mỗi ngày. Rõ ràng, điều này có thể làm chi phí xăng dầu tăng, khiến 1 thùng dầu Brent đắt thêm 20-25 USD.

Tình trạng gián đoạn nguồn cung có thể xảy ra khi các quốc gia OPEC hoặc OPEC+ quyết định cắt giảm sản lượng chung, từ đó khiến mọi việc nghiêm trọng hơn và có thể nhấn chìm thị trường năng lượng thế giới.

Theo chuyên gia Salameh, các thành viên OPEC+ đều mong chờ việc giá dầu Brent tăng từ 100 USD trở lên, ngoại trừ Nga. Họ cần giá dầu tăng để cân bằng ngân sách. Ông dự báo nhóm này sẽ đánh giá phản ứng của thị trường đối với mức giá trần và sau đó hành động.

Trước đó, câu lạc bộ gồm 23 nhà sản xuất dầu mỏ đã nhóm họp vào ngày 4/12 để thảo luận về hướng đi của chính sách sản lượng. Họ đã nhất trí tuân thủ chính sách hiện tại là giảm sản lượng dầu 2 triệu thùng/ngày cho đến cuối năm 2023.

"Trong trường hợp không thể tưởng tượng được là thị trường không phản ứng với mức trần, thì OPEC+ sẽ cắt giảm sản lượng để đảm bảo sự ổn định của giá cả và nguồn cung", chuyên gia năng lượng này dự đoán.

Trong khi đó, Tom Luongo, nhà bình luận tài chính và chính trị, cho rằng giá dầu chắc chắn tăng. "Vì vậy, vào năm 2023, hãy chờ đợi một làn sóng lạm phát lớn khác do giá năng lượng tăng, tình trạng thiếu lương thực thực phẩm và Trung Quốc mở cửa lại nền kinh tế gây sức ép lên giá kim loại", chuyên gia này nói.

Lý giải tại sao cơ chế áp giá trần của phương Tây đối với dầu Nga sẽ thất bại, ông Salameh cho rằng Nga không thiếu khách mua dầu. "Nếu mục đích của việc áp mức trần là buộc giảm doanh thu xuất khẩu dầu mỏ của Nga thì nó sẽ thất bại hoàn toàn".

Ngoài ra, Nga cũng đang sở hữu đội tàu chở dầu hùng mạnh đến mọi nơi trên thế giới và không cần sử dụng các công ty vận tải cũng như công ty bảo hiểm của phương Tây.

"Khách hàng của Nga sẽ tự chi trả phí bảo hiểm cho những chuyến hàng nhập khẩu dầu. Ngay cả khi Nga bán ít dầu hơn, doanh thu của nước này cũng không bị suy giảm vì giá dầu đã tăng cao hơn", ông nói thêm.

Kế hoạch của G7 phần lớn phụ thuộc vào việc cấm vận các công ty vận tải và bảo hiểm cung cấp dịch vụ cho Nga trừ khi Moscow đồng ý bán dầu thô với giá 60 USD/thùng hoặc thấp hơn.

Tuy nhiên, Moscow đã nói rõ sẽ không khuất phục trước các yêu cầu của G7 và tự dùng đội tàu chở dầu và các công ty bảo hiểm của riêng mình.

Hồi tháng 5, Rosneft và Gazprom Neft - hai nhà sản xuất dầu lớn của Nga - bắt đầu tăng các đơn đặt hàng trước từ tàu chở dầu của Sovcomflot, công ty vận tải biển lớn nhất của Nga.

Hơn nữa, các phương tiện truyền thông phương Tây đều đồng loạt đưa tin về việc Nga cũng yêu cầu mua thêm 100 tàu. Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Nga (RNRC) và IPJSC Ingosstrakh được cho là sẽ trở thành những nhà bảo hiểm chính cho các hãng vận tải dầu của Nga.

Kế hoạch của G7 và lệnh cấm vận của EU đối với nhập khẩu dầu thô của Nga bằng đường biển, cũng có hiệu lực vào ngày 5/12, sẽ không ngăn cản Nga xuất khẩu hoặc vận chuyển dầu theo bất kỳ cách nào, ông Luongo nhấn mạnh.

"Điều sẽ xảy ra là bản đồ phân phối dầu trên toàn thế giới sẽ thay đổi", chuyên gia này lưu ý.

"Năng lượng chảy về phía tây giờ sẽ chảy về phía đông và nam. Đường ống ESPO sẽ được sử dụng hết công suất khi nhu cầu từ Đông Nam Á tăng lên... Trung Quốc và Ấn Độ đã lấp đầy khoảng trống. Dầu của Nga sẽ được trộn ở Bahamas hoặc các cảng lưu trữ khác và sau đó được gửi trở lại các nhà máy lọc dầu của EU", ông nói thêm.

G7 có thể lĩnh hậu quả?

Theo chuyên gia Salameh, Nga có thể trở thành người chiến thắng cuối cùng trong khi EU có nguy cơ thua cuộc trong cuộc chiến năng lượng "khi cuộc sống của người dân châu Âu đang trên đà lao dốc và nền kinh tế của khối trên bờ vực suy thoái nghiêm trọng".

Cuối cùng, EU đã trở thành con mồi cho kế hoạch địa chính trị của Washington. Ông chỉ ra Mỹ châm ngòi cho cuộc xung đột Nga - Ukraine, không những âm mưu làm suy yếu Moscow, phá vỡ quan hệ song phương Nga - Trung, mà còn "phá hủy EU với tư cách là một liên minh và biến các thành viên riêng lẻ của khối này thành các con rối".

"EU sẽ phải đối mặt với giá năng lượng tiếp tục cao, dòng vốn ròng chảy ra ngoài do thiếu đầu tư và đồng tiền giảm giá khi khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường toàn cầu sụp đổ", ông Luongo liên tục cảnh báo.

"Họ cũng sẽ bị đánh giá là một đối tác thương mại không đáng tin cậy vì liên tục thay đổi các điều khoản hợp đồng trong khi vẫn đang còn hiệu lực", ông nói thêm.

Suranjali Tandon, trợ lý giáo sư tại Viện Chính sách và Tài chính Công Quốc gia có trụ sở tại Delhi (Ấn Độ), cho rằng sáng kiến áp giá trần của G7 có thể có tác động tiêu cực hơn nữa đối với nền kinh tế toàn cầu.

Theo bà, giá dầu tăng cao có thể dẫn đến những khó khăn chính trị cho các quốc gia đang đối phó với sự gia tăng bất bình đẳng và cũng có thể cản trở sự phục hồi kinh tế toàn cầu.

Đồng thời, hệ thống tài chính toàn cầu hiện nay vốn lấy phương Tây làm trung tâm có thể khiến các nước thứ 3 rời xa tiền tệ của các nước G7 hơn nữa do các dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm từ các nước thứ ba tăng giá, bà cảnh báo.

Theo nữ học giả Ấn Độ, sự chia rẽ trong khối châu Âu cũng có thể sẽ gia tăng.

Các chính trị gia ở mỗi quốc gia châu Âu cũng sẽ đối mặt với những nghi vấn từ các cử tri khi chính sách năng lượng không nhất quán, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái và khủng hoảng năng lượng bủa vây Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Những rạn nứt đầu tiên đã xuất hiện tại EU khi các cuộc biểu tình lẻ tẻ nổ ra gần đây trên khắp "lục địa già" nhằm kêu gọi chính phủ dỡ bỏ các lệnh trừng phạt năng lượng đối với Nga.

Theo các nhà quan sát, Mỹ cũng có khả năng bị ảnh hưởng bất lợi. Chuyên gia Salameh cho rằng, vì Mỹ sẽ phải trả giá cao hơn cho lượng dầu nhập khẩu hơn 9 triệu thùng dầu mỗi ngày, nên sẽ làm tăng thâm hụt ngân sách và đẩy nhanh lạm phát và do đó là suy thoái.

Nói chung, các nước G7 có thể phải trả giá đắt cho chủ nghĩa phiêu lưu năng lượng và đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng tồi tệ, chuyên gia năng lượng trên cảnh báo.

Theo Dân trí

Áp trần giá dầu Nga, Mỹ và EU Áp trần giá dầu Nga, Mỹ và EU "thích đủ thứ"
Lệnh cấm vận dầu Nga sắp có hiệu lực, thị trường dầu mỏ sẽ ra sao?Lệnh cấm vận dầu Nga sắp có hiệu lực, thị trường dầu mỏ sẽ ra sao?
Trung Quốc lên tiếng sau khi phương Tây áp giá trần với dầu NgaTrung Quốc lên tiếng sau khi phương Tây áp giá trần với dầu Nga
Tàu chở dầu cũ Tàu chở dầu cũ "hái ra tiền" nhờ lệnh trừng phạt dầu Nga
Xuất khẩu dầu Nga đã giảm mạnh sau vòng trừng phạt mớiXuất khẩu dầu Nga đã giảm mạnh sau vòng trừng phạt mới
Bloomberg: Doanh nghiệp Trung Quốc mua dầu Nga trên giá trần của phương TâyBloomberg: Doanh nghiệp Trung Quốc mua dầu Nga trên giá trần của phương Tây

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,000 151,000
Hà Nội - PNJ 148,000 151,000
Đà Nẵng - PNJ 148,000 151,000
Miền Tây - PNJ 148,000 151,000
Tây Nguyên - PNJ 148,000 151,000
Đông Nam Bộ - PNJ 148,000 151,000
Cập nhật: 20/10/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,050 ▲350K 15,150 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 15,050 ▲360K 15,150 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 15,050 ▲350K 15,150 ▲15150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,050 ▲350K 15,150 ▲15150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,050 ▲250K 15,150 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,050 ▲250K 15,150 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,950 ▲150K ▼15100K
NL 99.99 14,950 ▼15100K
Trang sức 99.9 14,940 ▼10K 15,140 ▲40K
Trang sức 99.99 14,950 15,150 ▲50K
Cập nhật: 20/10/2025 20:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,505 ▲10K 15,152 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,505 ▲10K 15,153 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,502
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,462 ▲5K 1,492 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 143,223 ▲495K 147,723 ▲495K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,561 ▲375K 112,061 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 94,116 ▲340K 101,616 ▲340K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,671 ▲305K 91,171 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,642 ▲291K 87,142 ▲291K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,873 ▲209K 62,373 ▲209K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Cập nhật: 20/10/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16579 16848 17419
CAD 18246 18522 19132
CHF 32585 32969 33601
CNY 0 3470 3830
EUR 30093 30366 31388
GBP 34579 34972 35899
HKD 0 3260 3462
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14788 15371
SGD 19812 20094 20618
THB 721 784 837
USD (1,2) 26082 0 0
USD (5,10,20) 26123 0 0
USD (50,100) 26151 26171 26356
Cập nhật: 20/10/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,156 26,156 26,356
USD(1-2-5) 25,110 - -
USD(10-20) 25,110 - -
EUR 30,331 30,355 31,480
JPY 171.67 171.98 179.02
GBP 34,950 35,045 35,841
AUD 16,885 16,946 17,378
CAD 18,493 18,552 19,065
CHF 32,890 32,992 33,653
SGD 19,984 20,046 20,646
CNY - 3,652 3,746
HKD 3,342 3,352 3,432
KRW 17.16 17.9 19.21
THB 769.15 778.65 827.9
NZD 14,825 14,963 15,299
SEK - 2,755 2,837
DKK - 4,057 4,171
NOK - 2,585 2,658
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,845.91 - 6,551.98
TWD 779.58 - 937.92
SAR - 6,928.19 7,246.83
KWD - 84,056 88,816
Cập nhật: 20/10/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,133 30,254 31,337
GBP 34,764 34,904 35,842
HKD 3,325 3,338 3,441
CHF 32,622 32,753 33,642
JPY 170.67 171.36 178.22
AUD 16,809 16,877 17,399
SGD 19,994 20,074 20,589
THB 782 785 818
CAD 18,462 18,536 19,045
NZD 14,875 15,352
KRW 17.79 19.45
Cập nhật: 20/10/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26164 26164 26356
AUD 16750 16850 17458
CAD 18420 18520 19124
CHF 32816 32846 33729
CNY 0 3663.4 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30264 30294 31317
GBP 34859 34909 36012
HKD 0 3390 0
JPY 171.18 171.68 178.73
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.161 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14892 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19964 20094 20825
THB 0 749.9 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 15050000 15050000 15150000
SBJ 14500000 14500000 15150000
Cập nhật: 20/10/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,135 26,221 26,356
USD20 26,171 26,221 26,356
USD1 26,171 26,221 26,356
AUD 16,822 16,922 18,032
EUR 30,429 30,429 31,744
CAD 18,384 18,484 19,791
SGD 20,048 20,198 21,120
JPY 171.92 173.42 178.03
GBP 34,963 35,113 35,879
XAU 15,048,000 0 15,152,000
CNY 0 3,548 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/10/2025 20:00