CTCK Dầu khí: Cơ hội đầu tư nửa cuối năm 2022 đến từ nhóm doanh nghiệp thuộc ngành nghề phòng thủ

13:45 | 22/06/2022

7,497 lượt xem
|
Trong Báo cáo chiến lược 6 tháng cuối năm 2022 vừa mới công bố của Công ty Chứng khoán Dầu khí (PSI), các chuyên gia đánh giá, thị trường chứng khoán Việt Nam nhiều khả năng sẽ tiếp tục những nhịp điều chỉnh chung theo thị trường thế giới, tuy nhiên sau đó sẽ tích lũy phục hồi.

Điểm sáng vĩ mô

Báo cáo đánh giá, Việt Nam khả năng cao có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6 - 6,5% trong năm 2022 nhờ hoạt động xuất khẩu dẫn dắt tăng trưởng kinh tế với đầu tàu là các doanh nghiệp FDI.

Cùng với đó là sự phục hồi mạnh mẽ của nhóm ngành dịch vụ du lịch, ăn uống sau khi Bộ Y tế bỏ yêu cầu xét nghiệm Covid-19 đối với người nhập cảnh và xu hướng “mua sắm trả thù” trên cơ sở kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương trong 2 năm diễn ra dịch bệnh.

PSI kỳ vọng việc đẩy nhanh giải ngân gói hỗ trợ kinh tế xã hội trị giá 350 nghìn tỷ đồng sẽ thúc đẩy nhiều ngành kinh tế trọng yếu và đầu tư công, đây sẽ là động lực thúc đẩy cho tăng trưởng bên cạnh tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình.

Rủi ro tiềm ẩn

So với Mỹ và châu Âu, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam vẫn ở mức rất thấp nhờ khả năng chủ động được các mặt hàng thiết yếu. Thêm vào đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa điều chỉnh lãi suất điều hành từ đầu năm tới nay, như vậy, Việt Nam còn nhiều dư địa để nâng lãi suất giúp kiềm chế đà tăng của lạm phát. Dù vậy, PSI dự báo CPI của Việt Nam năm 2022 sẽ tăng trên 5%, cao hơn mục tiêu 4% của Quốc hội. Lãi suất điều hành có thể sẽ được tăng nhẹ trong nửa cuối của năm 2022.

Thông tư 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực kể từ 1/7/2022 sẽ khiến các ngân hàng phải đánh giá lại các khoản nợ đang được cơ cấu lại trong 2 năm qua. Tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng được PSI đánh giá là sẽ tăng nhanh do nhiều doanh nghiệp đã phá sản do dịch Covid-19.

Bên cạnh đó, tiến độ giải ngân các gói đầu tư công và hỗ trợ tài khóa nếu không được đẩy nhanh sẽ có thể làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế, nhất là khi lạm phát tăng cao hơn mức thu nhập khả dụng thực tế của người dân, ảnh hưởng tới tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình, tác động tiêu cực tới sản xuất và đầu tư.

Nhóm cổ phiếu ngành năng lượng có nhiều triển vọng tăng trưởng
Nhóm cổ phiếu ngành năng lượng được đánh giá có nhiều triển vọng tăng trưởng

Thị trường chứng khoán 6 tháng cuối năm 2022

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến nhịp điều chỉnh mạnh của chỉ số cùng sự “cạn kiệt” của thanh khoản trong tháng 4 và 5. VN-Index sau khi “rơi” hơn 300 điểm kể từ đỉnh lịch sử 1.528,57 điểm, đã quay trở lại vùng đỉnh quan trọng cũ 1.200 điểm, tương ứng với mức P/E 13,1 (trung bình 10 năm - 1SD), thấp hơn nhiều mức trung bình 10 năm.

Trong khi đó, các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán vẫn tăng trưởng 29% doanh thu và 32% về lợi nhuận trong Quý I/2022. PSI kỳ vọng, đà tăng trưởng này sẽ tiếp tục được duy trì trong 6 tháng cuối năm 2022 với động lực tăng trưởng chính đến từ hoạt động xuất khẩu, hàng tiêu dùng trong nước và các chính sách tài khóa hỗ trợ nền kinh tế của Chính phủ.

Lạm phát tiếp tục là rủi ro chính đối với nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, với khả năng tự sản xuất đa phần hàng hóa thiết yếu, Việt Nam sẽ hạn chế được việc phải nhập khẩu lạm phát từ thế giới.

Rủi ro từ thị trường thế giới với lo ngại đến từ cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine và lệnh phong tỏa ở Trung Quốc gây gián đoạn chuỗi cung ứng và “bóng ma” đình lạm (Stagflation) - một trạng thái kinh tế hiếm hoi với sự kết hợp giữa cả lạm phát cao, thất nghiệp cao và tăng trưởng thấp đe dọa đến 2 khu vực kinh tế trụ cột của thế giới đó là Mỹ và EU, sẽ khiến cho thị trường chứng khoán tiếp tục giảm mạnh hơn nữa.

Lựa chọn cổ phiếu để đầu tư

Báo cáo chiến lược của PSI nhận định, cơ hội đầu tư được kỳ vọng trong nửa cuối năm 2022 sẽ đến từ nhóm doanh nghiệp thuộc ngành nghề phòng thủ, những nhóm ngành năng lượng, tiêu dùng với đặc tính thiết yếu, ít biến động so với chu kỳ kinh tế và không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi lạm phát.

Ngành Dầu khí - Giá dầu tiếp tục neo cao từ sự thiếu hụt nguồn cung

Nguồn cung thiếu hụt từ Nga là nhân tố chính tạo áp lực tăng giá dầu thô thế giới ở hiện tại. Giá dầu tăng mạnh là một cơ hội với nhóm cổ phiếu này, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp dịch vụ, phân phối và chế biến dầu khí.

Trong khi đó, OPEC vẫn đang thận trọng với mức tăng sản lượng.

Nguồn: Bloomberg, EIA, PSI tổng hợp
Nguồn: Bloomberg, EIA, PSI tổng hợp

Giá dầu được dự báo sẽ tiếp tục neo cao trong nửa cuối năm. Theo dự báo của Cơ quan thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), giá dầu có thể đạt trung bình 107 USD/thùng trong năm 2022, trong bối cảnh: nguồn cung từ OPEC+ không đủ để bù đắp phần thiếu hụt từ cuộc chiến Nga - Ukraine (ước tính gần 3 triệu thùng/ngày), do chính sách sản lượng thận trọng của nhóm này.

Cũng do ảnh hưởng cuộc chiến, giá khí đốt thế giới cũng chịu tác động từ việc cắt giảm nguồn cung từ Nga, đặc biết là khi các biện pháp trừng phạt từ Mỹ và châu Âu tiếp tục leo thang.

Ngành điện - Phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch

Với kịch bản cơ sở, nhu cầu sử dụng điện sẽ hồi phục mạnh mẽ từ việc mở cửa nền kinh tế sau đại dịch giúp gia tăng mức tiêu thụ điện. Đặc biệt năm 2022, điều kiện thủy văn tương đối thuận lợi sẽ giúp nhiều doanh nghiệp thủy điện có lợi nhuận tốt.

Nguồn: PGV, Bloomberg, PSI tổng hợp
Nguồn: PGV, Bloomberg, PSI tổng hợp

Theo dự báo, sản lượng điện năm 2022 sẽ tăng trưởng ở mức 8,2 - 12,4%. Tính đến hết tháng 5/2022, sản lượng điện thương phẩm toàn quốc đạt 95,31 tỷ kWh, tăng 5,3% so với cùng kỳ. PSI kỳ vọng tốc độ tăng trưởng sẽ cao hơn trong thời gian tới do nền kinh tế phục hồi tích cực sau dịch Covid-19.

Cũng trong báo cáo, thủy điện là điểm sáng cho năm 2022. Sản lượng thủy điện tính từ đầu năm 2022 đạt 85,65 tỷ kWh ( tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước). Cụ thể, từ quý II/2022 bắt đầu vào mùa phát điện của thủy điện cộng thêm mùa mưa năm 2022 đến sớm và được dự báo lượng mưa phổ biến trên cả nước sẽ cao hơn trung bình nhiều năm trước. Do đó, PSI dự đoán doanh thu của các nhà máy thủy điện sẽ tăng mạnh mẽ trong nửa cuối năm 2022.

PSI đánh giá năng lượng tái tạo sẽ chững lại sau thời kỳ bùng nổ. Các chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, quan trọng nhất là cơ chế giá FIT đã hết hạn và thời điểm ban hành các cơ chế giá mới cũng không được đề cập. Năng lượng tái tạo sẽ tiếp tục tăng tỷ trọng trong tổng sản lượng điện, tuy nhiên việc phát triển thêm nguồn điện mới sẽ chững lại cho tới khi các quy định tiếp theo được ban hành.

Ngành phân bón - Hưởng lợi từ giá phân bón tăng mạnh

Nhu cầu tích trữ lương thực cùng giá phân bón tăng cao trong bối cảnh xung đột giữa Nga - Ukraine kéo dài, tiếp tục là động lực tăng trưởng ngắn hạn cho các doanh nghiệp hóa chất phân bón.

Cụ thể, nguồn cung khan hiếm do đứt gãy chuỗi cung ứng phân bón toàn cầu khiến giá phân bón tăng mạnh. Vào cuối năm 2021, Trung Quốc và Nga - hai trong số ba quốc gia xuất khẩu phân bón nhiều nhất thế giới, đã ra quyết định tạm ngừng xuất khẩu phân bón để ổn định nguồn cung trong nước và kiểm soát lạm phát. Sản lượng sản xuất của Nga chiếm khoảng 30% tổng nguồn cung phân bón trên toàn thế giới.

Hơn thế, Nga còn là nguồn cung của 70% nguyên liệu đầu vào để sản xuất phân bón tại châu Âu, vì vậy việc các lệnh trừng phạt áp đặt lên Nga trực tiếp khiến cho giá phân bón thế giới biến động mạnh mẽ. Giá phân bón cũng cao hơn 40% so với thời điểm một tháng trước khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine hôm 24/2.

Nhìn vào thị trường trong nước, giá phân bón liên tục tăng trong 2 năm qua và tiếp tục duy trì ở mức cao. Giá phân bón tăng mạnh làm cho nhu cầu tiêu thụ trong nước sụt giảm, doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hơn. Trong quý I/2022, tổng sản lượng tiêu thụ không đổi so với cùng kỳ năm trước, trong khi sản lượng xuất khẩu đạt 510.000 tấn, tăng 47% so với cùng kỳ và tăng 31% so với quý IV/2021.

Minh Châu

PSI hoàn thành vượt mức kế hoạch quý I/2022, thúc đẩy đầu tư công nghệPSI hoàn thành vượt mức kế hoạch quý I/2022, thúc đẩy đầu tư công nghệ
Tăng giá, lạm phát và giải mã đằng sau chuyện Tăng giá, lạm phát và giải mã đằng sau chuyện "giá đó thì lên tivi mua"
Bộ Tài chính thực hiện nhiều giải pháp bảo vệ nhà đầu tưBộ Tài chính thực hiện nhiều giải pháp bảo vệ nhà đầu tư
Đề nghị lưu ý các bất ổn của thị trường tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu...Đề nghị lưu ý các bất ổn của thị trường tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu...
Chứng khoán 14/6: VN-Index phục hồi nhẹ với sự dẫn dắt của nhóm Dầu khíChứng khoán 14/6: VN-Index phục hồi nhẹ với sự dẫn dắt của nhóm Dầu khí
Chứng khoán 16/6: VN-Index tăng gần 23 điểm, nhóm Dầu khí xanh cùng thị trườngChứng khoán 16/6: VN-Index tăng gần 23 điểm, nhóm Dầu khí xanh cùng thị trường

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,000 151,000
Hà Nội - PNJ 148,000 151,000
Đà Nẵng - PNJ 148,000 151,000
Miền Tây - PNJ 148,000 151,000
Tây Nguyên - PNJ 148,000 151,000
Đông Nam Bộ - PNJ 148,000 151,000
Cập nhật: 19/10/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,700 ▼150K 15,100
Trang sức 99.9 14,690 ▼150K 15,090
NL 99.99 14,700 ▼150K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,700 ▼150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,800 ▼50K 15,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,800 ▼50K 15,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,800 ▼50K 15,100
Miếng SJC Thái Bình 14,950 15,100
Miếng SJC Nghệ An 14,950 15,100
Miếng SJC Hà Nội 14,950 15,100
Cập nhật: 19/10/2025 22:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,495 15,102
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,495 15,103
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,502
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,457 1,487
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 142,728 147,228
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,186 111,686
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 93,776 101,276
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,366 90,866
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,351 86,851
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,664 62,164
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Cập nhật: 19/10/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16578 16847 17436
CAD 18256 18532 19149
CHF 32561 32945 33595
CNY 0 3470 3830
EUR 30057 30330 31361
GBP 34558 34950 35889
HKD 0 3260 3463
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14774 15359
SGD 19787 20069 20606
THB 719 782 837
USD (1,2) 26076 0 0
USD (5,10,20) 26117 0 0
USD (50,100) 26145 26165 26356
Cập nhật: 19/10/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,156 26,156 26,356
USD(1-2-5) 25,110 - -
USD(10-20) 25,110 - -
EUR 30,447 30,471 31,570
JPY 172.51 172.82 179.89
GBP 35,031 35,126 35,934
AUD 16,796 16,857 17,287
CAD 18,461 18,520 19,032
CHF 33,037 33,140 33,792
SGD 20,003 20,065 20,676
CNY - 3,651 3,745
HKD 3,341 3,351 3,431
KRW 17.18 17.92 19.22
THB 773.87 783.43 833.25
NZD 14,803 14,940 15,281
SEK - 2,759 2,837
DKK - 4,072 4,186
NOK - 2,581 2,654
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.13 - 6,550
TWD 777.39 - 935.29
SAR - 6,925.89 7,244.45
KWD - 84,140 88,935
Cập nhật: 19/10/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,246 30,367 31,451
GBP 34,804 34,944 35,882
HKD 3,325 3,338 3,440
CHF 32,708 32,839 33,732
JPY 171.48 172.17 179.09
AUD 16,763 16,830 17,346
SGD 20,034 20,114 20,626
THB 789 792 826
CAD 18,441 18,515 18,996
NZD 14,859 15,336
KRW 17.84 19.50
Cập nhật: 19/10/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26164 26164 26356
AUD 16679 16779 17385
CAD 18413 18513 19117
CHF 32969 32999 33878
CNY 0 3661.6 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30371 30401 31426
GBP 34876 34926 36034
HKD 0 3390 0
JPY 172.45 172.95 180.01
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.146 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14877 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19968 20098 20831
THB 0 750.9 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 15150000 15150000 15300000
SBJ 15000000 15000000 15300000
Cập nhật: 19/10/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,135 26,185 26,356
USD20 26,135 26,185 26,356
USD1 23,846 26,185 26,356
AUD 16,706 16,806 17,946
EUR 30,485 30,485 31,849
CAD 18,328 18,428 19,769
SGD 20,021 20,171 20,672
JPY 172.57 174.07 178.92
GBP 34,933 35,083 35,905
XAU 15,148,000 0 15,302,000
CNY 0 3,541 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/10/2025 22:00